Sương Nguyệt Ánh
Là con gái thứ năm của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, bà là nữ thi sĩ nhiều người biết đến, trong văn đàn công khai ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX. Tên thường gọi của bà là Năm Hạnh, còn là Nguyễn Xuân Khuê, tự Nguyễn Ánh. Quê bà ở làng An Bình Đông, nay là xã An Đức huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, xinh đẹp, thông minh, giỏi văn thơ từ lúc còn nhỏ tuổi.
Do có nhan sắc và tài làm thơ, mặc dù được nhiều người yêu mến dạm hỏi, nhưng bà Sương Nguyệt Ánh đều từ chối.
Đến khi lấy chồng, sinh được một con gái, chồng chết, bà ở goá nuôi con, làm nghề dạy học.
Cuối năm 1917, Sương Nguyệt Ánh được mời vào làm chủ bút tờ Nữ giới chung (Tiếng chuông phụ nữ), tờ báo phụ nữ đầu tiên xuất bản tại Sài Gòn (1918). Chưa đầy một năm, báo phải đóng cửa, bà về sống ở Ba Tri.
Đau mắt bị loà, bà vẫn dạy học, làm thuốc…
Thơ của Sương Nguyệt Ánh, ngoài bản dịch bộ ”yên sơn ngoại”, chủ yếu là thơ nôm, theo thể đường luật, bát cú hay tư tuyệt hoặc lục bát hay vè.
Nội dung các bài thơ đã nêu lên sự kiên trinh của người phụ nữ (Vịnh nicô, Thưởng bạch mai, Hoạ thơ bảy nguyện, Hoạ thơ phủ học). Một trong số bài thơ kín đáo bày tỏ tâm sự yêu nước thương dân, quan tâm đến thời cuộc.