Chân dung nữ anh hùng lực lượng vũ trang

22/12/2005
Nhân kỷ niệm 61 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22-12-1944 - 22-12-2005), Trang Web Hội LHPN Việt Nam xin giới thiệu cùng bạn về chân dung một số nữ anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Người bảy lần được gặp Bác Hồ

 

A Lưới, chon von vắt vẻo ở lưng chừng dãy Trường Sơn hùng vĩ, là nơi sinh sống của các dân tộc anh em Pa Kô, Vân Kiều, Pa Hy, Cơ Tu... Trong kháng chiến, mảnh đất này đã sinh ra tám AHLLVT, trong đó có nữ Anh hùng Hồ Kan Lịch người Pa Cô.

 

Căn nhà của Kan Lịch nép mình bên đường Hồ Chí Minh. Tận dụng điều này, chị mở quán cà phê kiếm đồng ra đồng vào. Không có khách, quán tồn tại được hai tháng thì đóng cửa. Kan Lịch bảo đây là lần làm ăn thất bại thứ... nhiều rồi, chị không thức thời với thị hiếu thì đành chịu vậy, chỉ một thứ mà ba chục năm nay giúp kinh tế gia đình bớt khó khăn, con cái học hành tới nơi tới chốn, dựng vợ gả chồng được cho chúng... là các mùa rẫy.

 

Kan Lịch nói: “Làm rẫy là tốt nhất, rẫy đã nuôi mình trưởng thành để chiến đấu, cũng như nuôi sống những đồng bào anh em khác trong vùng, rừng núi Trường Sơn đâu có phụ bạc mình”.

 

63 tuổi, chị vẫn từng ngày lên nương. Tôi theo chân chị lên núi A Bung, nơi Kan Lịch chuẩn bị thu hoạch gần 5ha sắn, cà phê và nhiều thứ cây khác. Bước chân chị vượt dốc thoăn thoắt, nước da đồng hun càng đi càng đỏ au. Dọc đường, chị chẳng nói nhiều về thành tích, gặng mãi tôi mới nghe kể đôi điều, sau những làn thuốc rê.

 

Anh hùng Hồ Kan Lịch sinh năm 1943, 13 tuổi theo cách mạng làm liên lạc bí mật, năm 14 tuổi bị bắt giam cùng chú ruột là AHLLVT Hồ Đức Vai. 18 tuổi, Kan Lịch đã là nữ Đảng viên cộng sản đầu tiên của dân tộc Pa Kô rồi. Lúc thoát khỏi nanh vuốt chúng, chị chiến đấu trong tình thế không có cơm ăn, nước uống luôn thiếu nhưng vẫn bắn cháy máy bay Mỹ (1967) ngay cạnh sân bay A Lưới, tiêu diệt 60 lính Mỹ chuẩn bị đi càn.

 

 Ảnh minh họa
 Tuy đã 63 tuổi nhưng Anh hùng Hồ Kan Lịch vẫn hàng ngày lên nương lên rẫy chăm lo sản xuất.
Kan Lịch chiến đấu giỏi nên 160 chị em du kích người dân tộc ở A Lưới theo chị. Giặc Mỹ mỗi lần nghe đến đội du kích Kan Lịch là run sợ bỏ chạy không dám giáp mặt. Những thành tích đó Kan Lịch cứ nói là thành tích của tập thể, chẳng nhận riêng về mình.

 

Sau Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua toàn miền Nam lần hai, nữ AHLLVT người Pa Kô Hồ Kan Lịch được vinh dự ra Bắc gặp Bác Hồ. Trên đường đi dọc đại ngàn Trường Sơn, Kan Lịch bị sốt rét hành hạ đến mức tự cắn... đứt lưỡi, may có những bác sĩ giỏi giúp Kan Lịch nối lại lưỡi để nói chuyện được với Bác Hồ.

Kan Lịch kể rằng: “Biết mình là người Thừa Thiên - Huế nên Bác đã dặn nhà thơ Tố Hữu bảo nhà bếp chuẩn bị món ăn Huế. Nhìn Bác gắp thức ăn và lo cho mình ăn, mình chỉ biết nhìn Bác khóc rồi thưa rằng: Cháu là người dân tộc, tuy ở Huế nhưng sống khổ trong núi quen rồi, ăn gì cũng được, không cần cầu kỳ đâu Bác ạ! Mình thật vinh dự và sung sướng khi trong hai năm 1967-1968 được bảy lần gặp Bác Hồ, trong đó có năm lần được ăn cơm cùng Bác.

 

Bác còn dặn mình: Cháu trở về trong đó nhớ chuyển lời Bác thăm hỏi đồng bào, cháu nói với các dân tộc anh em rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta nhất định thắng lợi, hãy đoàn kết để đánh thắng giặc. Cháu Lịch à, làm ra Anh hùng đã khó mà giữ Anh hùng lại khó hơn. Những câu nói đó, mình ghi trong dạ suốt đời”.

 

Hôm ấy, mỗi người được Bác Hồ tặng một chiếc đồng hồ. Riêng Kan Lịch, Bác tặng thêm chiếc đài bán dẫn để chị về cùng đồng bào nghe thời sự, để có cảm giác gần Bác và miền Bắc hơn.

 

Khi được Bác hỏi về chuyện có thích đi học tập ở Liên Xô không, Kan Lịch thưa: “Thưa Bác, cho cháu xin được trở về miền Nam chiến đấu, đợi đến ngày hai miền Nam - Bắc đoàn tụ, cháu đón Bác vào thăm miền Nam được rồi thì đi học mới ưng cái bụng!”. Khi ấy, mọi người thấy Bác Hồ rơi nước mắt...

 

Sau ngày nghỉ hưu, người dân A Lưới ngày nào cũng thấy Kan Lịch lên nương lên rẫy chăm lo sản xuất. Cơ ngơi của chị nay có nhiều trâu trên núi, lắm bò bên đồi, ruộng nước luôn cho lúa năng suất cao, sắn bắp luôn sẵn trong nhà không khi nào thiếu đói. Chị không những cật lực làm cho gia đình mình mà còn hướng dẫn bà con, các đồng bào anh em cùng làm. Chị tất bật trong mọi công việc xã hội, vừa nói vừa làm nên được nhân dân trong vùng tin yêu, họ coi chị như ngọn đuốc sáng dẫn đường cho bà con noi theo để tiến kịp miền xuôi.

 

Gia đình Kan Lịch được đánh giá là gia đình gương mẫu nhất A Lưới, chỉ sinh hai con, con trai đầu sinh năm 1974 hiện làm công an tại thị trấn, con gái út làm truyền thông kế hoạch hóa gia đình. Nuôi con ăn học thành người, chị còn nuôi thêm 6 đứa cháu mồ côi. Nay các cháu đã trưởng thành, ai cũng ra riêng và được Kan Lịch làm cho căn nhà để bắt đầu xây dựng cuộc sống riêng.

 

Dân bản vùng A Lưới mỗi khi nhắc về thiếu tá Kan Lịch thường tự hào kể rằng mỗi tháng, khi nhận lương hưu hai triệu mốt (hai triệu một trăm ngàn đồng), chị phân phát cho những người khó khăn trong vùng như sự hỗ trợ về vốn để đồng bào làm ăn.

 

Chị làm tự giác, không lấy lãi, thậm chí có khi không đòi lại vốn. Chúng tôi hỏi chuyện này, chị nhoẻn cười: “Dân bản mình nghèo, Kan Lịch có cái gì thì bà con có cái đó mà”. Nghe vậy chúng tôi nói vui: “Bác Hồ bảo làm ra Anh hùng đã khó, giữ được Anh hùng lại khó hơn, Hồ Kan Lịch làm được rồi đấy...”.

 

Hồn hậu như bông hoa rừng, Kan Lịch nói: “Chưa đâu, mình phải đảm đang việc nhà, việc xã hội đến khi chết mới nói là giữ được danh hiệu Anh hùng”.


*Chuyện về nữ Anh hùng Công an Nguyễn Thị Lài

Chị ngồi trước tôi nhỏ bé, gương mặt in hằn dấu vết của thời gian lúc nào cũng sáng lên nụ cười đằm thắm, giọng nói Huế dễ thương như mê hoặc. Thật khó tưởng tượng chị lại là một nữ anh hùng, từng khiến kẻ thù bạt vía kinh hồn, từng trải qua những trận tra tấn dã man của kẻ thù mà vẫn trở về trong tư thế của người chiến thắng.

 Ảnh minh họa
 Nữ anh hùng Nguyễn Thị Lài
Nguyễn Thị Lài là con gái duy nhất trong nhà nên được cưng chiều lắm. Nhưng cũng là cơ sở cách mạng nên ba mẹ bằng lòng cho chị đi ở từ năm 14 tuổi theo yêu cầu của tổ chức. Chủ nhà chị ở thường là cảnh sát ngụy, luật sư hoặc những gia đình có vai vế để dễ nắm tình hình. Ngày chị cố gắng làm hết công việc, đêm đến có khi gánh đủ 15 gánh nước vào thạp rồi mới lấy chục ổ bánh mỳ đi bán, kỳ thực là để rải truyền đơn và dán cờ cách mạng. Công việc cực kỳ nguy hiểm vì khi đó, lính Phượng Hoàng (lực lượng ác ôn nhất) tràn ngập, mật thám nhan nhản. Chị cười giòn: “Ngày nớ, cứ mỗi lần rao ‘ai bánh mỳ đây’ thì tay đã đập vào tường cái ‘bép’, thế là dán xong lá cờ. Vui nhưng cũng nhiều lúc thót cả tim vì lo bị bắt!”.

Không chỉ làm tổ trưởng trinh sát, đào hầm nuôi cán bộ, chị Lài còn là một biệt động thành nổi tiếng với những trận đánh gây kinh hoàng cho kẻ địch. Tôi hỏi chị đã tham gia bao nhiêu trận, chị lại cười giòn tan: “Đánh giặc nhiều như công việc hàng ngày, nhớ sao nổi?”. Nhưng rồi chị cũng kể cho tôi nghe một trận đánh gắn với câu chuyện tình lãng mạn của chị...

Năm 1971 do yêu cầu công việc, chị nhận lời yêu Quang – một đại úy ngụy, vốn là bạn học cùng quê. Từng bước, chị xây dựng anh thành một người phục vụ cho cách mạng. “Nhưng chỉ có ông già Quang là biết công việc tôi làm, còn anh ấy thì không thấy nói gì!” – Chị kể.

Dịp đó, sau thất bại nặng nề trên mặt trận đường Chín - Nam Lào, địch rút quân về Huế, trên tay mỗi kẻ thất trận đều mang dải băng gắn hai chữ “Trâu Điên”, phản ánh đầy đủ sự hung bạo của đội quân này. Nhưng để huênh hoang, lừa dối dân chúng rằng quân đội Cộng hòa mới là người chiến thắng, chúng còn tổ chức buổi triển lãm về “chiến thắng” đường Chín Nam Lào tại rạp chiếu bóng thành phố.

Nhận lệnh phải phá tan âm mưu của chúng, vạch rõ sự thất bại thảm hại của địch trong ngày triển lãm, Nguyễn Thị Lài năn nỉ Đại úy Quang: “Em rất muốn đi dự triển lãm, anh nghĩ cách cho em vô trong nớ!”. Thế rồi, trong vai một thiếu nữ yểu điệu, người tình của Đại úy Quang, chị Lài lọt được qua cổng gác với giỏ trái cây xinh xắn trên tay có quả mìn hẹn giờ mà chính Đại úy Quang cũng không hay biết.

Lựa được chỗ đặt mìn gần nơi sĩ quan địch tụ tập, chị kêu chóng mặt muốn về. Đại úy Quang vội vàng đưa chị ra. Được một quãng, chị nghe tiếng nổ lớn và dân chúng kháo nhau rầm rĩ: “Việt Cộng đặt mìn ở rạp chiếu bóng! Chu cha là lính chết!”. Hôm sau, Đại úy Quang sang khoe với chị: “Hôm qua Việt Cộng mò vào tận triển lãm đánh mìn, may mà em đòi về, nếu không … Cám ơn em đã cứu sống anh!”. Chị giả bộ ngạc nhiên mà cười thầm trong bụng. Chị phải cám ơn anh mới đúng. Nhưng mục tiêu xây dựng anh thành cơ sở chưa kịp hoàn thành thì anh bị đưa đi trận và chết ở Đà Lạt.

Sau đó, chị nhận tiếp lệnh phải diệt tên Liên Thành, Trưởng ty Cảnh sát Thừa Thiên – Huế. Khi đó chị đang đi ở cho một cảnh sát ngụy, nên chị đi thẳng qua cổng gác, nói là gặp chị chủ nhà mà không bị gây phiền phức. Qua cổng, chị đi một mạch tới phòng của tên Trưởng ty và trong lúc vờ hỏi thăm phòng chủ nhà, chị lẹ tay để luôn chiếc giỏ có quả mìn vào gầm bàn hắn ngồi. Nhưng không may, khi chưa kịp thoát ra ngoài thì bị hắn phát hiện.

Ba đêm ba ngày liền bị đánh đập dã man, chị vẫn không nhận túi của mình. Liên Thành liền gặp riêng chị, dụ dỗ: “Cháu khai ra người xui cháu đặt mìn, bác sẽ mua cho một tòa nhà để ở, tội chi đi theo cách mạng”. Rồi hắn rút ra một bó tiền to cho chị Lài xem. Chị giả vờ thành thực: “Khi cháu đi đến cổng, có một người thanh niên cao to bắt cháu mang túi mìn vào đặt, nếu không sẽ bắt cháu đi!”. Lúc này, trong áo con của chị vẫn còn một cái thư nhỏ xíu nên chị lo lắm. Cái túi thì cãi được vì không bắt tận tay chứ lá thư thì… Lừa lúc tên thẩm vấn sơ ý, chị lén lấy cái thư đưa nhanh lên miệng nhai và chộp lấy ly nước trên bàn uống vội. Lập tức, chị nhận một cái tát nảy đom đóm vì tội “uống mà không hỏi”, nhưng chị không cảm thấy đau mà mừng vì đã phi tang được vật chứng! Từ đó, chị mạnh mẽ bước vào cuộc đấu tranh với kẻ thù.

Theo Sài Gòn giải phóng và Công an nhân dân

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video