Đề cương tuyên truyền kết quả Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XI

21/03/2012
 

HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM

ĐOÀN CHỦ TỊCH

 

 


Hà Nội, ngày 18tháng 03 năm 2012

TÀI LIỆU TUYÊN TRUYỀN

KẾT QUẢ ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU PHỤ NỮ TOÀN QUỐC LẦN THỨ XI

Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI được tổ chức tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội từ ngày 11/3/2012 đến ngày 14/3/2012 (khai mạc trọng thể sáng 12/3 và bế mạc sáng 14/3). Dự Đại hội có 979 đại biểu (trên tổng số 985 đại biểu được triệu tập) là những phụ nữ ưu tú: các chị nữ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Bộ, ban, ngành, Mặt trận/đoàn thể; nữ lãnh đạo chủ chốt các tỉnh/thành; các chị là công nhân, nông dân; trí thức, lực lượng vũ trang, doanh nhân, sinh viên, chức sắc tôn giáo và các dân tộc anh em tiêu biểu cho ý chí và nguyện vọng, sức mạnh đoàn kết và trí tuệ của hàng chục triệu phụ nữ từ khắp mọi miền Tổ quốc.

Với tinh thần đoàn kết, dân chủ, đổi mới, vì sự tiến bộ, bình đẳng của phụ nữ Việt Nam và sự phát triển của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI đã thành công tốt đẹp, thể hiện quyết tâm của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn Quốc lần thứ XI.

I. BỐI CẢNH VÀ Ý NGHĨA ĐẠI HỘI

1. Bối cảnh

Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI diễn ra trong thời điểm có ý nghĩa quan trọng. Đại hội Đảng toàn Quốc lần thứ XI đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020; phương hướng mục tiêu nhiệm vụ 2011-2015. Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI là Đại hội mở đầu của các tổ chức chính trị - xã hội được tiến hành sau Đại hội đại biểu toàn Quốc lần thứ XI của Đảng. Năm 2012 là năm Đảng ta ban hành và triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCH TW Đảng (khóa XI) về Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 11/NQ-TW của Bộ Chính trị (khóa X) về Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Đây là những định hướng quan trọng cho việc xác định phương hướng nhiệm vụ của phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam.

2. Ý nghĩa

- Đại hội Đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI là sự kiện chính trị quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới trong việc phát huy vai trò, tiềm năng, sức sáng tạo và khả năng đóng góp cao nhất của phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước, khẳng định sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và của xã hội đối với phụ nữ và tổ chức Hội LHPN Việt Nam.

- Trên cơ sở đánh giá nghiêm túc, thẳng thắn, khách quan những thành công, hạn chế của phong trào phụ nữ và công tác Hội; thảo luận, phân tích nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm, Đại hội xác định phương hướng đúng đắn, xây dựng giải pháp phù hợp và có tính khả thi cho nhiệm kỳ tới. Đại hội cũng có nhiệm vụ quan trọng là sửa đổi, bổ sung Điều lệ Hội; bầu ra Ban Chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam khóa XI (nhiệm kỳ 2012 – 2017) thực sự tiêu biểu về phẩm chất, trí tuệ, nhiệt tình, đủ năng lực lãnh đạo hoàn thành những nhiệm vụ nặng nề của phong trào phụ nữ và công tác Hội trong 5 năm tới.

- Với chủ đề “Đoàn kết - Sáng tạo - Hội nhập - Phát triển”, Đại hội đại biểu PNTQ lần thứ XI đại diện cho ý chí, nguyện vọng và trí tuệ của phụ nữ cả nước, phát huy truyền thống vẻ vang, tiếp tục đóng góp xứng đáng vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vì sự bình đẳng và phát triển của phụ nữ. Động viên mạnh mẽ phong trào thi đua yêu nước của các tầng lớp phụ nữ, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.

II. CÔNG TÁC CHUẨN BỊ ĐẠI HỘI

1. Thành lập Ban Tổ chức Đại hội và các tiểu ban phục vụ Đại hội (Tiểu ban Văn kiện, Tiểu ban Nhân sự, Tiểu ban Tuyên truyền, Tiểu ban Hậu cần) từ cuối năm 2010.

2. Chuẩn bị các văn kiện Đại hội

- Thực hiện Kết luận 62 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, từ tháng 02/2010, Hội đã tiến hành nghiên cứu đánh giá thực trạng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu PNTQ lần thứ X và Điều lệ Hội LHPN Việt Nam; xác định nhu cầu của các tầng lớp phụ nữ. Kết quả nghiên cứu là cơ sở xây dựng chương trình hành động thực hiện Kết luận 62, đồng thời là cơ sở xây dựng Báo cáo chính trị và sửa đổi, bổ sung Điều lệ Hội.

- Dự thảo Báo cáo chính trị và dự thảo sửa đổi, bổ sung Điều lệ Hội được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu vận dụng thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2011-2015), các nghị quyết, chỉ thị, chiến lược của Đảng, Nhà nước có liên quan trực tiếp tới công tác phụ nữ và bình đẳng giới; tiếp thu ý kiến thảo luận đóng góp của Đại hội đại biểu Phụ nữ 3 cấp, Ban Chấp hành TW Hội (kỳ họp thứ 8, 9, 10); các chuyên gia, nhà khoa học; đại diện các ban Đảng, đoàn thể và lãnh đạo Hội các thời kỳ.

Tại kỳ họp thứ 10 (từ ngày 04 - 06/01/2012), Ban Chấp hành TW Hội LHPN Việt Nam khoá X đã tập trung thảo luận và thống nhất cao với nội dung cơ bản của dự thảo Báo cáo chính trị và dự thảo sửa đổi, bổ sung Điều lệ Hội.

- Sau khi tiếp thu ý kiến của Ban Chấp hành TW Hội tại Hội nghị lần thứ 10, Ban Tổ chức Đại hội đã chỉnh sửa, hoàn thiện dự thảo Báo cáo chính trị và dự thảo sửa đổi, bổ sung Điều lệ Hội lấy ý kiến công chúng rộng rãi trên Báo Phụ nữ Việt Nam, Trang thông tin điện tử của Hội và xin ý kiến Ban Tổ chức TW, Ban Dân vận TW.

- Ban Tổ chức Đại hội đã tiếp thu ý kiến của công chúng, của Ban Tổ chức TW, Ban Dân vận TW, hoàn thiện văn bản trình Ban Bí thư TW Đảng. Sau khi Ban Bí thư TW Đảng cho ý kiến chỉ đạo, Ban Tổ chức Đại hội đã tiếp tục hoàn thiện dự thảo Báo cáo chính trị và dự thảo sửa đổi, bổ sung Điều lệ, gửi xin ý kiến đóng góp của các đoàn đại biểu và trình Đại hội.

Có thể khẳng định, Dự thảo Văn kiện Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XI đã được chuẩn bị công phu, nghiêm túc, bám sát thực tiễn phong trào phụ nữ, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Các văn bản trình Đại hội là kết tinh trí tuệ, tình cảm, niềm tin, ý chí, sự kỳ vọng và quyết tâm của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam.

3. Phát động thi đua và công tác tuyên truyền

- Chào mừng Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI, Ban Chấp hành Trung ương Hội LHPN Việt Nam phát động công trình thi đua đặc biệt với mục tiêu xây dựng 3000 "Mái ấm tình thương" và tặng 1000 suất học bổng cho “Quỹ tiếp bước cho em đến trường”. Từ kết quả bước đầu của đợt thi đua, ngày 3/3/2012, Hội LHPN Việt Nam đã phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam, Bộ Quốc phòng Tổ chức sự kiện truyền hình trực tiếp: Trao giải thưởng Kovalevxkaia; trao học bổng cho con em chiến sỹ đang làm nhiệm vụ ở biên giới, hải đảo có hoàn cảnh khó khăn; trao Mái ấm tình thương cho phụ nữ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

- Các phương tiện thông tin đại chúng đã rất quan tâm tuyên truyền trước, trong và sau Đại hội (Đài THVN phát sóng phim tài liệu “Những người dệt gấm thêu hoa” và thường xuyên thông tin về Đại hội, Báo Nhân dân số ra ngày chủ nhật từ 12/2 có chuyên trang về Đại hội, Đài Tiếng nói Việt Nam tập trung tuyên tuyền về Đại hội, một số báo mở chuyên mục...).

- Tuyên truyền bằng băng rôn, khẩu hiệu trên các đường phố tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.

- Xây dựng tài liệu sinh hoạt hội viên về Đại hội PNTQ lần thứ XI.

- Họp báo thông báo nhanh kết quả Đại hội; Tổ chức Liên hoan văn nghệ chào mừng thành công Đại hội.

III. ĐẠI HỘI NHẬN ĐƯỢC SỰ QUAN TÂM, CHỈ ĐẠO SÁT SAO CỦA LÃNH ĐẠO ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ ỦNG HỘ CỦA MTTQ, CÁC BỘ, BAN, NGÀNH, CÁC ĐOÀN THỂ; SỰ QUAN TÂM CỦA CÁC TẦNG LỚP PHỤ NỮ, CỦA XÃ HỘI VÀ NHIỀU TỔ CHỨC QUỐC TÊ

1. Sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, ủng hộ của MTTQ, các bộ, ban, ngành, đoàn thể

Trong suốt quá trình chuẩn bị và trong thời gian diễn ra Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc XI, Đại hội và Hội LHPN Việt Nam luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng; sự ủng hộ thiết thực, nhiệt tình của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, các bộ, ban, ngành, đoàn thể TW và Thủ đô Hà Nội.

Sự quan tâm, chăm lo thiết thực của Đảng và Nhà nước, sự ủng hộ của MTTQ, các ban, ngành, đoàn thể là niềm động viên to lớn, cổ vũ, khích lệ các tầng lớp phụ nữ Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, đoàn kết, hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong quá trình chuẩn bị Đại hội:

Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 22 tháng 12 năm 2010 về lãnh đạo đại hội đại biểu phụ nữ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI; Thông báo số 42 – TB/TW ngày 15/7/2011 Thông báo kết luận của Ban Bí thư về một số vấn đề liên quan đến Đại hội Đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI. Trong năm 2011, được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng và chính quyền, Đại hội phụ nữ các cấp tỉnh/huyện và cơ sở nhiệm kỳ 2011-2016 đã được tổ chức thành công với tinh thần Đoàn kết- Đổi mới-Dân chủ- Trí tuệ- Thiết thực.

Ngày 29/11/2011 trong cuộc làm việc với Hội LHPN Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã định hướng những vấn đề quan trọng đối với phong trào phụ nữ và công tác Hội trong thời gian tới. Ngày 14/2/2012, Đảng Đoàn Hội LHPN Việt Nam đã báo cáo với Ban Bí thư về công tác chuẩn bị cho Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc XI và được Ban Bí thư cho các ý kiến chỉ đạo sát sao về một số vấn đề liên quan đến báo cáo chính trị, Điều lệ Hội LHPN Việt Nam (sửa đổi, bổ sung) và nhân sự.

Ngày 22/2/2012 Thủ tướng Chính phủ đã có buổi làm việc với Đoàn Chủ tịch TW LHPN Việt Nam, cùng dự có các đồng chí lãnh đạo các Bộ/ngành TW. Tại buổi làm việc, các đề xuất của Hội đã nhận được sự ủng hộ của Thủ tướng Chính phủ, đây là cơ sở quan trọng giúp Hội triển khai tốt phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2012-2017.

Ngày 1/3/2012, đại diện lãnh đạo các Bộ: Lao động - Thương binh và Xã hội, Văn hóa - Thể thao - Du lịch, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có buổi giao lưu trực tuyến với cán bộ, hội viên phụ nữ ở 63 điểm cầu trong cả nước về vấn đề lao động - việc làm và gia đình đối với phụ nữ.

Trong quá trình diễn ra Đại hội:

Phiên khai mạc và phiên bế mạc, Đại hội được đón các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước: Tổng Bí thư BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng; Chủ tịch UBTWMTTQ VN Huỳnh Đảm; các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị; Bí thư TW Đảng, Ủy viên Ban Chấp hành TW Đảng; Trưởng các Ban của Đảng; Bộ trưởng, thứ trưởng các Bộ; Trưởng, phó các ban ngành đoàn thể TW và lãnh đạo thành phố Hà Nội.

Đại hội rất xúc động được nhận thư và hoa chúc mừng của Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười, Đại tướng Võ Nguyên Giáp; Câu đối của Giáo sư, Anh hùng lao động Vũ Khiêu:

“Buổi canh tân đã lắm gian nan, gánh nửa giang sơn trên đất Việt

Thời hội nhập càng nhiều thử thách, nhân đôi tài đức dưới trời Nam”.

Chiều 12/03/2012, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang đã có buổi gặp mặt thân mật các Trưởng đoàn đại biểu và một số đại biểu tiêu biểu dự Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI.

Buổi tối cùng ngày, lãnh đạo Thành ủy, HĐND, UBND, Ban VSTBPN TP Hà Nội tiếp thân mật các đoàn đại biểu dự Đại hội.

Đặc biệt, tại phiên khai mạc trọng thể Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI, Tổng Bí thư BCH TW Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng và trao tặng cho cán bộ, hội viên và các tầng lớp phụ nữ Việt Nam bức trướng mang dòng chữ “Phụ nữ Việt Nam Đoàn kết - Sáng tạo - Hội nhập - Phát triển”. Trong bài phát biểu, thay mặt cho Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Tổng Bí thư đã đánh giá cao vai trò, đóng góp của PNVN, của Hội LHPN Việt Nam trong thời gian qua; đồng thời giao nhiệm vụ cho Hội LHPN Việt Nam lãnh đạo, chỉ đạo phong trào phụ nữ cả nước ngày càng phát triển trong giai đoạn tới, trong đó nhấn mạnh 8 vấn đề:

Một là, Hội LHPN Việt Nam cần nắm vững và quán triệt thật sâu sắc những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; Cương lĩnh chính trị và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới; tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết có liên quan cũng như thực tiễn hoạt động của phong trào phụ nữ và Hội Phụ nữ để có những biện pháp cụ thể đưa những quan điểm, tư tưởng, chủ trương của Đảng vào cuộc sống. Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục các tầng lớp phụ nữ, các giới phụ nữ hưởng ứng thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy sức mạnh, thế mạnh của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực; đồng thời chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ.

Hai là, tiếp tục tổ chức và nâng cao chất lượng các phong trào thi đua, các cuộc vận động để phát huy tiềm năng, sức sáng tạo của phụ nữ, lôi cuốn đông đảo chị em tham gia xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng như chủ động giải quyết những vấn đề của chính phụ nữ. Phát động nhiều phong trào thiết thực; vận động chị em tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua, các cuộc vận động như : Cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới; toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư; phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc; phụ nữ giúp nhau xoá đói, giảm nghèo; các phong trào vì người nghèo, mái ấm tình thương; học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh...

Ba là, trong tình hình hiện nay, cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng gia đình - gia đình văn hoá, no ấm, hạnh phúc, tiến bộ; chăm sóc, giáo dục trẻ em. Bên cạnh trách nhiệm người công dân, phụ nữ còn có trách nhiệm lớn lao trong gia đình với thiên chức là người mẹ sinh thành và nuôi dạy thế hệ tương lai trở thành người hữu ích cho xã hội. Các cấp Hội tiếp tục tổ chức, hướng dẫn, hỗ trợ phụ nữ thực hiện các chính sách về hôn nhân - gia đình, chăm sóc sức khoẻ, bảo vệ bà mẹ - trẻ em, bảo vệ môi trường… Phối hợp với các cấp, các ngành, các đoàn thể, bồi dưỡng cho phụ nữ kiến thức về nuôi dạy con, tổ chức cuộc sống gia đình, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ thuần phong, mỹ tục, truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam, nêu cao lòng nhân ái, khoan dung, tính dịu hiền, tình đoàn kết, quý trọng, giúp đỡ lẫn nhau, nhất là khi gặp khó khăn, hoạn nạn; lên án những hành vi vô đạo đức, vô trách nhiệm trong quan hệ gia đình.

Bốn là, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội theo tinh thần Nghị quyết 11-NQ/TW về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và Kết luận số 62-KL/TW của Bộ Chính trị (khoá X) về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội để xây dựng, củng cố tổ chức Hội thực sự vững mạnh, phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt trong công tác vận động phụ nữ. Đa dạng hoá nội dung hoạt động nhằm đáp ứng một cách thiết thực, hiệu quả nhu cầu của các tầng lớp phụ nữ. Hướng mạnh hoạt động về cơ sở, khu dân cư; cải tiến công tác chỉ đạo, điều hành; xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm từng thời kỳ để tập trung chỉ đạo quyết liệt, tạo hiệu quả rõ rệt, tránh hình thức, phô trương, hành chính hoá trong hoạt động của Hội.

Năm là, tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Hội các cấp, đáp ứng yêu cầu công tác Hội trong giai đoạn mới, đồng thời góp phần tạo nguồn cán bộ nữ cho các cấp, các ngành. Xây dựng đội ngũ cán bộ Hội có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có tư duy sáng tạo, nhiệt tình, tâm huyết với công tác Hội; có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp vận động phụ nữ. Nâng cao chất lượng công tác đào tạo cán bộ Hội đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn chức danh và vị trí công việc. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ qua hoạt động thực tiễn. Kịp thời phát hiện, bồi dưỡng, lựa chọn giới thiệu những chị em có đủ tiêu chuẩn tham gia các cấp uỷ đảng, chính quyền và các ban, ngành từ Trung ương đến cơ sở, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Sáu là, vừa qua Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) đã ban hành Nghị quyết "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay". Đây là một Nghị quyết có tầm quan trọng đặc biệt; thực hiện Nghị quyết là đợt sinh hoạt chính trị lớn trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cần tổ chức thật nghiêm túc việc quán triệt, học tập, triển khai thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Chỉ thị và Kế hoạch của Bộ Chính trị tới toàn thể cán bộ, hội viên của Hội; đồng thời hướng dẫn để cán bộ, hội viên tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước ngày càng vững mạnh, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Bảy là, nhiệm kỳ tới của Hội công việc sẽ nhiều thêm, có những việc khó khăn và phức tạp hơn, đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ Hội đủ sức lãnh đạo phong trào và công tác của Hội. Tại Đại hội này, cùng với việc đóng góp vào Báo cáo chính trị, Điều lệ Hội (sửa đổi, bổ sung), các đại biểu Đại hội còn một nhiệm vụ hết sức quan trọng là bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Hội bao gồm các đồng chí có phẩm chất, năng lực, uy tín, nhiệt tình và trách nhiệm cao, đủ sức lãnh đạo phong trào và công tác của Hội trong nhiệm kỳ tới; chú ý đến cơ cấu, tỉ lệ cán bộ nữ là người dân tộc thiểu số, công nhân, lao động và cán bộ nữ trẻ có triển vọng.

Tám là, công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và từng gia đình. Các cấp uỷ đảng, chính quyền, các ngành cần quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu công tác phụ nữ trong tình hình mới, tổ chức lãnh đạo cũng như xây dựng các chương trình, kế hoạch hoạt động cụ thể để tạo bước chuyển biến rõ rệt về hiệu quả công tác phụ nữ ở từng ngành, địa phương, đơn vị; quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cấp Hội. Các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức xã hội, cơ quan thông tin đại chúng cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về giới và ý thức trách nhiệm thực hiện bình đẳng giới cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân; chú trọng tuyên truyền gương phụ nữ điển hình tiên tiến; lên án, đấu tranh chống tư tưởng coi thường phụ nữ, các hành vi phân biệt đối xử, xâm hại, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.

Đại hội đã nhận được: 22 tham luận của các Bộ, ngành; 15 tham luận của các tỉnh, thành, đơn vị, cá nhân tiêu biểu. Trong đó, có 19 tham luận được trình bày tại Đại hội. Nội dung các tham luận đều ghi nhận, đánh giá của các cấp Hội, các Bộ ngành về phong trào phụ nữ trên các lĩnh vực; về vai trò của Hội LHPN trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, vận động các tầng lớp phụ nữ thực hiện các phong trào thi đua, xây dựng nông thôn mới; dạy nghề, tạo việc làm cho phụ nữ, các hình thức tập hợp, thu hút hội viên … Các bộ, ngành đã cam kết sẽ tiếp tục tăng cường phối kết hợp, tạo điều kiện để Hội triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ 2012 – 2017 và những năm tiếp theo.

Các tham luận đã đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm góp phần đưa phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam ngày càng phát triển, phù hợp với nhiệm vụ và tình hình giai đoạn cách mạng mới.

Đại hội đã thu hút được sự quan tâm, chú ý của các tầng lớp phụ nữ, của xã hội và bạn bè quốc tế

Nhân dân và phụ nữ cả nước đã tham gia góp ý đầy trách nhiệm vào dự thảo Báo cáo chính trị của Đại hội. Ngoài việc đóng góp tại Đại hội phụ nữ các cấp, một số nhà nghiên cứu khoa học đã gửi thư góp ý trực tiếp tới Trung ương Hội với nhiều ý kiến xác đáng, những kỳ vọng ở tổ chức Hội trong nhiệm kỳ mới.

Đại hội nhận được thư, điện chúc mừng của nhiều tổ chức phụ nữ và tổ chức đối tác nước ngoài, khu vực và quốc tế, Hội Phụ nữ Việt Nam ở nước ngoài. Nội dung thư/điện đánh giá cao vai trò của Hội LHPN VN đối với những thành tựu về bình đẳng và phát triển của phụ nữ Việt Nam, đồng thời, bày tỏ mong muốn thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác với Hội LHPN VN trong thời gian tới.

IV. ĐẠI HỘI ĐÃ THẢO LUẬN VÀ THÔNG QUA NHỮNG VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG CỦA PHONG TRÀO PHỤ NỮ VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LHPN VIỆT NAM

1. Đánh giá tình hình thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu Phụ nữ PN toàn quốclần thứ X, nhiệm kỳ 2007- 2012

1.1. Về phong trào phụ nữ 5 năm qua

Phát huy truyền thống vẻ vang của phụ nữ Việt Nam, 5 năm qua, cùng với toàn Đảng, toàn dân, phụ nữ các tầng lớp, các dân tộc, tôn giáo, ở mọi vùng miền trong cả nước, đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn, năng động sáng tạo, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, góp phần quan trọng vào thành tựu phát triển chung của đất nước. Phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” ngày càng được các tầng lớp phụ nữ hưởng ứng rộng rãi, được gắn kết với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cụ thể hóa vào phong trào thi đua của ngành, địa phương, tạo sự chuyển biến về chất trong phong trào phụ nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Chiếm 51,37% lao động khu vực nông thôn[1], phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Mặc dù chịu ảnh hưởng thường xuyên của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, nhưng chị em đã vượt qua khó khăn, thi đua sản xuất, mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mở rộng ngành nghề, góp phần quan trọng vào phát triển nông nghiệp, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, giữ vững vị trí là nước có kim ngạch xuất khẩu nông sản cao, đặc biệt xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội.

Lao động nữ tiếp tục chiếm tỷ lệ cao trong các ngành công nghiệp chế biến, dệt may, giầy da, thương mại, dịch vụ và tham gia ngày càng nhiều vào các ngành kinh tế đòi hỏi yêu cầu chuyên môn, kỹ thuật, công nghệ cao. Chị em đã tích cực hưởng ứng phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, không ngừng phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề, không quản ngại làm thêm ca, thêm giờ, góp sức tạo ra nhiều sản phẩm ngày càng đa dạng, chất lượng cao, tạo niềm tin cho người tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước, tăng kim ngạch xuất khẩu, nâng cao tiềm lực kinh tế của đất nước.

Trong điều kiện nền kinh tế đất nước chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, chị em nữ doanh nhân đã năng động, sáng tạo, vượt qua thách thức để doanh nghiệp đứng vững và phát triển. Các doanh nghiệp và hộ gia đình sản xuất kinh doanh do phụ nữ làm chủ, đã tạo thêm việc làm cho hàng vạn lao động, tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội, nhân đạo.

Chiếm số đông trong đội ngũ cán bộ giáo viên toàn ngành, đặc biệt trong các cấp học phổ thông, phụ nữ ngành giáo dục - đào tạo thi đua “Dạy tốt, học tốt”, “Giỏi việc trường, đảm việc nhà”, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Phụ nữ và trẻ em gái ngày càng bình đẳng hơn về cơ hội được tiếp cận giáo dục, đào tạo. Cùng với những tiến bộ của y học nước nhà, sức khỏe phụ nữ tiếp tục được cải thiện. Những chính sách mới về y tế đã tạo điều kiện cho phụ nữ tiếp cận tốt hơn dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Phụ nữ ngành y tế với phong trào người thầy thuốc giỏi phải như mẹ hiền đã nỗ lực phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn, rèn luyện y đức, đóng góp lớn cho sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân nói chung, phụ nữ và trẻ em nói riêng.

Văn hóa, thông tin, thể thao, du lịch ngày càng phát triển, tạo điều kiện cho phụ nữ nâng cao đời sống tinh thần. Chị em đóng góp quan trọng vào việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, quảng bá hình ảnh Việt Nam với bạn bè quốc tế, thu hút đông đảo khách du lịch đến với Việt Nam. Phụ nữ tham gia ngày càng nhiều trong lĩnh vực báo chí, xuất bản, văn học, nghệ thuật; tham gia hầu hết các bộ môn thi đấu thể thao thành tích cao và đạt nhiều huy chương ở các đấu trường trong nước, khu vực và quốc tế. Định kiến giới về vai trò truyền thống của phụ nữ và nam giới có sự thay đổi, hình ảnh người phụ nữ tự tin vươn lên, khẳng định mình trong các lĩnh vực xuất hiện ngày càng nhiều trong xã hội.

Giữ vai trò chủ chốt xây dựng gia đình hạnh phúc, chị em đã tích cực lao động tạo thu nhập, tổ chức tốt cuộc sống gia đình, nuôi dạy con trưởng thành; giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống gia đình Việt Nam. Hàng triệu bà mẹ trong điều kiện gia đình còn nhiều khó khăn nhưng với tình yêu thương và trách nhiệm, đã tần tảo, hi sinh chăm lo cho con được học hành, giáo dục con nên người. Nhiều chị em đã trở thành điểm tựa tinh thần cho chồng con trong hoàn cảnh éo le. Chúng ta trân trọng, tự hào về sự cống hiến, hi sinh thầm lặng của những người vợ, người mẹ đảm đang, thủy chung, nhân hậu.

Trong lĩnh vực chính trị, phụ nữ ngày càng tích cực, chủ động thực hiện quyền công dân, tham gia các hình thức dân chủ trực tiếp ở cộng đồng. Đội ngũ cán bộ nữ trên một số lĩnh vực phát triển về số lượng, chất lượng. Cán bộ nữ tham gia cấp ủy Đảng, cơ quan dân cử, cơ quan hành chính nhà nước các cấp đã đóng góp tích cực vào việc lãnh đạo, quản lý đất nước, ngành, địa phương. Nữ cán bộ, công chức, viên chức phấn đấu giỏi việc nước, đảm việc nhà, tích cực nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, trau dồi bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tự khẳng định mình ở từng vị trí công tác.

Phụ nữ đã tham gia tích cực trong các hoạt động đấu tranh chống âm mưu diễn biến hòa bình, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, bảo vệ chủ quyền an ninh, biên giới tại các địa bàn xung yếu và đóng góp tích cực vào hoạt động đối ngoại nhân dân. Với tinh thần thi đua quyết thắng, vì an ninh tổ quốc, phụ nữ trong lực lượng vũ trang tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng mưu trí, dũng cảm, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Chị em hoạt động trong ngành ngoại giao đã tích cực, chủ động, đóng góp hiệu quả trong lĩnh vực đối ngoại và hợp tác quốc tế, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Bên cạnh sự nỗ lực và đóng góp to lớn, phong trào phụ nữ còn đứng trước không ít khó khăn, thách thức:

Phụ nữ có ít cơ hội tham gia học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp; lực lượng lao động nữ tuy đông về số lượng nhưng tỷ lệ qua đào tạo thấp nên chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập. Khoảng cách thu nhập và mức sống giữa các nhóm phụ nữ, các vùng miền còn lớn. Nữ công nhân lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, lao động nữ di cư tự do, việc làm không ổn định, thu nhập thấp, điều kiện sinh hoạt tối thiểu không đảm bảo. Nữ nông dân thiếu việc làm, khó chuyển đổi nghề khi đất canh tác phải chuyển đổi mục đích sử dụng, chị em ít có điều kiện nghỉ ngơi, chăm sóc bản thân, kể cả khi sinh con. Phụ nữ dân tộc thiểu số, vùng sâu và các nhóm phụ nữ yếu thế đời sống còn nhiều khó khăn, ít cơ hội tiếp cận thông tin, giáo dục đào tạo và hệ thống an sinh xã hội. Tình trạng ô nhiễm môi trường, ô nhiễm thực phẩm, dịch bệnh ngày càng tăng, ảnh hưởng đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống, trong khi các điều kiện chăm sóc sức khoẻ chưa bảo đảm. Đã xuất hiện tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh; tình trạng nạo phá thai, đặc biệt ở tuổi vị thành niên đến mức báo động; tỷ lệ phụ nữ nhiễm HIV có xu hướng tăng nhanh. Thiếu các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để phụ nữ có thể vừa làm tốt công việc xã hội và chăm lo gia đình.

Tư tưởng trọng nam hơn nữ còn tồn tại trong xã hội. Giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống mai một. Tình trạng bạo lực gia đình, bạo lực học đường, buôn bán người, xúc phạm nhân phẩm, xâm hại tình dục đối với phụ nữ và trẻ em gái vẫn đang là vấn đề nổi cộm. Một bộ phận phụ nữ có xu hướng chạy theo lối sống coi trọng vật chất, đua đòi, hưởng thụ. Tình trạng phụ nữ phạm tội, mắc tệ nạn xã hội có chiều hướng tăng. Khiếu kiện đông người trái pháp luật có sự tham gia của phụ nữ còn xảy ra ở một số địa phương.

Công tác cán bộ nữ còn nhiều khó khăn, bất cập. Một số chỉ tiêu về tỷ lệ nữ lãnh đạo nhiều nhiệm kỳ không đạt và có xu hướng giảm. Cán bộ nữ ở vị trí ra quyết định và hoạch định chính sách chiếm tỷ lệ thấp.

Những khó khăn, thách thức nêu trên ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của phụ nữ và thực hiện mục tiêu bình đẳng giới.

1.2. Về kết quả hoạt động của Hội LHPN Việt Nam nhiệm kỳ 2007 - 2012

1.2.1. Công tác tuyên truyền, giáo dục đạt được những kết quả đáng khích lệ, góp phần nâng cao kiến thức, năng lực, trình độ mọi mặt của phụ nữ

Các cấp Hội đã tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, giáo dục truyền thống, giáo dục phẩm chất đạo đức, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng cho phụ nữ; vận động phụ nữ thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước gắn kết chặt chẽ với các phong trào thi đua, các cuộc vận động và thực hiện các đề án.

Hình thức tuyên truyền ngày càng đa dạng, coi trọng truyền thông tại cộng đồng, trực tiếp tới hội viên, phụ nữ. Hội đã kiên trì thúc đẩy xây dựng tủ sách phụ nữ và vận động cán bộ, hội viên, phụ nữ đọc sách và học tập qua sách báo. Các cơ quan tuyên truyền của Hội từng bước đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, nhất là tuyên truyền viên cơ sở được quan tâm củng cố. Việc biên soạn, phát hành tài liệu tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức theo chuyên đề ngày càng được chú trọng.

Các cấp Hội phối hợp chặt chẽ với ngành giáo dục - đào tạo và Bộ đội Biên phòng kiên trì vận động phụ nữ, cán bộ Hội cơ sở vùng cao, vùng sâu tham gia các lớp học xóa mù chữ. Một số mô hình xóa mù chữ có hiệu quả đã được thực hiện. Trong nhiệm kỳ, đã có trên 54 ngàn chị em trong độ tuổi được xóa mù chữ.

Cán bộ Hội ở nhiều địa phương đã thường xuyên sâu sát cơ sở, nắm bắt tình hình tư tưởng, đời sống, nhu cầu, nguyện vọng của phụ nữ, chủ động phản ánh với cấp ủy, chính quyền những vấn đề bức xúc và nguyện vọng của phụ nữ, của nhân dân; tuyên truyền hướng dẫn phụ nữ thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

1.2.2. Công tác tham gia xây dựng, giám sát luật pháp, chính sách liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ có chuyển biến tích cực

Hội đã chủ động đề xuất, đồng thời tham gia tích cực cùng các bộ, ban, ngành trong xây dựng chính sách, pháp luật liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới. Một số ý kiến đề xuất của Hội liên quan đến phụ nữ, cán bộ nữ đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận, cụ thể hóa thành chủ trương, chính sách. Hội đã bước đầu thực hiện phản biện xã hội từ góc độ giới đối với một số dự thảo Luật. Các cấp Hội đã lựa chọn ưu tiên và tổ chức giám sát việc thực hiện một số chủ trương, chính sách liên quan trực tiếp tới phụ nữ, bình đẳng giới và an sinh xã hội.

Các cấp Hội ở nhiều địa phương đã tích cực phối hợp với ngành Tư pháp tổ chức tư vấn pháp luật lưu động; tham gia với trách nhiệm cao trong các tổ hòa giải ở cơ sở, góp phần hòa giải thành công nhiều vụ việc. Ở những nơi xảy ra khiếu kiện đông người, có tính chất phức tạp, Hội đã tích cực tham gia giải quyết cùng các cơ quan chức năng.

Các cấp Hội đã chủ động tham mưu, tích cực phát hiện, giới thiệu nhân sự nữ trong xây dựng quy hoạch, ứng cử cấp ủy Đảng, đại biểu Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp; bồi dưỡng, giới thiệu phụ nữ ưu tú để Đảng xem xét kết nạp, góp phần nâng tỷ lệ nữ đảng viên trong tổng số đảng viên mới được kết nạp lên 37,85%[2].

1.2.3. Hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo ngày càng đa dạng, thiết thực, hiệu quả và đạt được những kết quả nổi bật

Các cấp Hội tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả, coi trọng phát huy nội lực của phụ nữ để giảm nghèo bền vững. Các phong trào “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế”,“Giúp phụ nữ nghèo có địa chỉ”…được duy trì bền bỉ trong suốt những năm qua, cùng các cuộc vận động lớn “Mái ấm tình thương”,“Thực hành tiết kiệm theo gương Bác” được triển khai sâu rộng khắp cả nước với tinh thần tương thân, tương ái, đã tạo nên nguồn nội lực to lớn giúp nhau phát triển kinh tế, giảm nghèo.

Việc khai thác, quản lý các nguồn vốn tín dụng, đặc biệt từ Ngân hàng Chính sách xã hội được đẩy mạnh. Đến cuối năm 2011, tổng dư nợ các nguồn vốn do các cấp Hội quản lý đạt trên 47 ngàn tỉ đồng, riêng nguồn vốn ủy thác từ Ngân hàng Chính sách - Xã hội đạt dư nợ trên 41 ngàn tỉ đồng, tỷ lệ hoàn trả luôn ở mức 99%. Hội đã phối hợp với ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn tổ chức tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho gần 10 triệu lượt phụ nữ, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả sản xuất kinh doanh của phụ nữ.

Hoạt động tài chính vi mô của Hội từng bước phát triển theo hướng chuyên nghiệp, bền vững, thiết thực góp phần thực hiện mục tiêu hỗ trợ phụ nữ giảm nghèo và thúc đẩy đổi mới phương thức hoạt động của Hội. Hoạt động hỗ trợ phụ nữ sản xuất kinh doanh, làm giàu chính đáng, khởi sự và phát triển doanh nghiệp có nhiều đổi mới. Công tác dạy nghề có bước chuyển quan trọng với việc triển khai thực hiện đề án “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm” trên phạm vi toàn quốc. Các cấp Hội tích cực tham gia tổ chức dạy nghề cho lao động nữ nông thôn, gắn kết chặt chẽ giữa dạy nghề với hỗ trợ tạo việc làm cho lao động nữ.

5 năm qua, các cấp Hội đã giúp trên 2,7 triệu lượt hộ nghèo, trong đó gần 450.000 hộ do phụ nữ làm chủ đã thoát nghèo; hỗ trợ xây dựng và sửa chữa 10.713 “Mái ấm tình thương”; phối hợp, liên kết dạy nghề cho trên 01 triệu lượt lao động nữ, giới thiệu và tạo việc làm cho trên 800 ngàn lao động, đóng góp thiết thực vào thành tựu phát triển kinh tế, giảm nghèo của cả nước.

1.2.4. Hoạt động hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc được đẩy mạnh

Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc là mục tiêu hướng tới của phần lớn các chương trình, các hoạt động của Hội. Cuộc vận động Xây dựng gia đình không nghèo đói, không có người vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội, không bạo lực, không sinh con thứ 3 trở lên, không để trẻ suy dinh dưỡng và bỏ học, nhà sạch, bếp sạch, ngõ sạch” gọi tắt là “5 không 3 sạch” được đông đảo hội viên, phụ nữ hưởng ứng, đang từng bước đi vào cuộc sống, đồng thời là nhân tố tích cực thúc đẩy đổi mới phương thức hoạt động và phong cách công tác dân vận của cán bộ Hội các cấp.

Đồng thời với việc tăng cường phối hợp cùng các ngành chức năng thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, Hội đã xây dựng và thực hiện một số dự án, đề án, mô hình hỗ trợ phụ nữ nâng cao nhận thức, kiến thức, kỹ năng, hướng tới thay đổi hành vi theo chiều hướng tích cực về nuôi dạy con, chăm sóc sức khỏe sinh sản, dân số/kế hoạch hóa gia đình, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình, phòng chống HIV/AIDS… Một số mô hình mới về dịch vụ gia đình được thí điểm có kết quả bước đầu, đáp ứng nhu cầu xã hội và gia đình, là cơ sở thực tiễn cho việc rút kinh nghiệm mở rộng hoạt động dịch vụ xã hội về gia đình.

Các cấp Hội thường xuyên quan tâm vận động phụ nữ tham gia thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh và công tác hậu phương quân đội. Công tác đền ơn đáp nghĩa, hoạt động nhân đạo tiếp tục được đông đảo các tầng lớp phụ nữ hưởng ứng. Trong nhiệm kỳ, các cấp Hội cả nước đã vận động thăm hỏi, tặng quà các gia đình chính sách, ủng hộ đồng bào bị ảnh hưởng bởi thiên tai, bão lũ trị giá trên 241 tỷ đồng.

1.2.5. Nội dung, phương thức hoạt động của Hội tiếp tục đổi mới; tổ chức bộ máy từng bước được kiện toàn; năng lực tổ chức ngày càng được nâng lên

Điểm nổi bật trong nhiệm kỳ qua là các cấp Hội đã chú trọng nghiên cứu tìm tòi và quyết tâm cao trong thực hiện đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; chú trọng phát huy sự chủ động, sáng tạo của từng cấp Hội và nội lực của phụ nữ.

Công tác kiện toàn tổ chức bộ máy các cấp Hội được tập trung thực hiện. Tổ chức Hội cơ sở được kiện toàn thống nhất theo mô hình: Ban Chấp hành Hội cơ sở - Chi hội - Tổ phụ nữ; mô hình tập hợp ngày càng đa dạng; tập trung phát triển hội viên theo hộ gia đình. Chất lượng hoạt động của tổ chức Hội cơ sở được nâng lên. Tính đến cuối tháng 12/2011, Hội đã thu hút được trên 15 triệu hội viên, tỷ lệ phát triển hội viên theo hộ gia đình có phụ nữ từ 18 tuổi trở lên đạt 80,42%.

Tính liên hiệp của tổ chức Hội từng bước được mở rộng. Hội đã hỗ trợ thành lập Hội Nữ trí thức Việt Nam; thí điểm thành lập tổ chức Hội trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và phát triển các mô hình tập hợp nữ công nhân khu công nghiệp, khu chế xuất; thí điểm hình thức tập hợp phụ nữ Việt Nam ở nước ngoài. Hệ thống câu lạc bộ doanh nhân nữ tiếp tục được mở rộng, một số câu lạc bộ cấp tỉnh đã phát triển thành Hội, Hiệp hội doanh nhân nữ, là cơ sở xúc tiến thành lập Hội Nữ doanh nhân Việt Nam.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được mở rộng về quy mô, đa dạng về hình thức, chú trọng về chất lượng, tập trung cho cán bộ chủ chốt cấp huyện và cơ sở. Công tác kiểm tra được thực hiện nghiêm túc, nề nếp. Công tác thi đua khen thưởng từng bước đổi mới; nội dung thi đua có trọng tâm, trọng điểm, khuyến khích sự chủ động, sáng tạo của mỗi cấp Hội.

1.2.6. Công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế đạt nhiều kết quả rõ nét, góp phần mở rộng hợp tác, hỗ trợ thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm của Hội

Quan hệ song phương giữa Hội với tổ chức phụ nữ, tổ chức có hoạt động liên quan đến phụ nữ các nước được tăng cường thông qua việc ký kết và thực hiện các thỏa thuận hợp tác quốc gia, khu vực và quốc tế. Quan hệ hữu nghị với tổ chức phụ nữ các nước láng giềng và các nước có quan hệ truyền thống được củng cố.

Trong quan hệ đa phương, Hội tham gia chủ động, tích cực và ngày càng có hiệu quả vào các diễn đàn khu vực và quốc tế; thực hiện tốt vai trò nước chủ nhà đăng cai tổ chức thành công Đại hội đồng Liên đoàn các Tổ chức Phụ nữ ASEAN lần thứ 14 và vai trò thành viên Mạng lưới các nhà Lãnh đạo nữ APEC, Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế. Đến nay, Hội đã có quan hệ với 307 tổ chức tại 66 quốc gia, vùng lãnh thổ.

Công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại được đẩy mạnh. Công tác vận động nguồn lực quốc tế tiếp tục được quan tâm ở cả cấp trung ương và tỉnh/thành, thiết thực góp phần thực hiện các nhiệm vụ công tác trọng tâm của Hội.

* Đánh giá chung

Năm năm qua, phát huy truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam, các tầng lớp phụ nữ đã hăng hái tham gia phong trào thi đua yêu nước, tích cực học tập, kiên trì, bền bỉ phấn đấu, năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất, công tác, đóng góp hiệu quả vào công cuộc phát triển kinh tế, giảm nghèo, thực hiện an sinh xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với sự phát triển của đất nước, trình độ, năng lực, vai trò, vị thế của phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được nâng lên; đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ từng bước được cải thiện.

Hội LHPN Việt Nam đã giữ vững vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ và sự nghiệp bình đẳng giới. Hội đã tập hợp, vận động phụ nữ tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tổ chức Hội có bước phát triển, tính liên hiệp và việc thực hiện chức năng đại diện, vai trò cầu nối giữa Đảng với phụ nữ có chuyển biến tốt; phương thức hoạt động có sự đổi mới rõ nét, bộ máy, cán bộ tiếp tục được kiện toàn, chất lượng được nâng lên. Sau một nhiệm kỳ nỗ lực phấn đấu, hầu hết các chỉ tiêu của nhiệm kỳ 2007-2012 đã đạt và vượt. Chỉ có 2 trong số 17 chỉ tiêu chưa đạt là tỷ lệ bà mẹ có con dưới 16 tuổi được hướng dẫn cách nuôi dạy con và tỷ lệ cán bộ Hội đạt chuẩn chức danh.

Đóng góp to lớn của phụ nữ và các cấp Hội đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận, đánh giá cao. Nhiều tập thể, cá nhân được khen tặng Huân chương và các danh hiệu cao quý. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng lần thứ 2.

Có được những thành tích trong nhiệm kỳ qua là do phụ nữ các tầng lớp, các vùng miền trong cả nước đã nỗ lực phấn đấu trên mọi lĩnh vực, gắn bó và ủng hộ tổ chức Hội; các cấp Hội đã vận dụng sáng tạo chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào thực hiện các nhiệm vụ công tác Hội; gắn bó với hội viên, phụ nữ; đoàn kết, quyết tâm cao trong thực hiện đổi mới nội dung, phương thức hoạt động. Đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ Hội các cấp nhiệt tình, trách nhiệm, tâm huyết với phong trào phụ nữ và công tác Hội. Đặc biệt Hội luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, chính sách tạo điều kiện của Nhà nước, sự ủng hộ, hợp tác thiết thực, hiệu quả của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp, cộng đồng và bạn bè quốc tế.

Bên cạnh những thành tích rất đáng tự hào, Đại hội thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế, về chủ quan và khách quan của phong trào phụ nữ và công tác Hội:

Phong trào phụ nữ phát triển chưa đồng đều, chưa khơi dậy mạnh mẽ tiềm năng, sức sáng tạo của các tầng lớp phụ nữ. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, giáo dục phẩm chất đạo đức còn thiếu chiều sâu, công tác tư tưởng chưa nhạy bén, tuyên truyền về hoạt động Hội còn mờ nhạt. Việc tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát thực hiện luật pháp, chính sách về bình đẳng giới còn nhiều hạn chế, thiếu chủ động. Các cấp Hội thiếu mạnh dạn đấu tranh và chủ động tham gia giải quyết các vụ việc bạo hành, xâm hại, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Hoạt động hỗ trợ phụ nữ duy trì việc làm ổn định sau dạy nghề và giảm nghèo hiệu quả chưa cao. Công tác vận động phụ nữ xây dựng gia đình còn nhiều bất cập, kết quả chưa rõ nét. Việc quản lý hội viên ở một số địa phương chưa chặt chẽ. Đến cuối nhiệm kỳ còn 2 chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội chưa đạt (đó là chỉ tiêu các bà mẹ được hướng dẫn kiến thức và chỉ tiêu chuẩn hóa chức danh cán bộ chủ chốt cấp huyện và cấp cơ sở).

Những tồn tại, hạn chế trên có nguyên nhân khách quan, nhưng trước hết và chủ yếu do nguyên nhân chủ quan. Đó là: Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội chưa đáp ứng tốt yêu cầu công tác phụ nữ trong tình hình mới và nhu cầu ngày càng đa dạng của các tầng lớp phụ nữ. Hội chưa chủ động chuẩn bị tốt về cơ sở lý luận, thực tiễn và tổ chức tham vấn xây dựng chính sách, pháp luật về bình đẳng giới. Năng lực tham mưu chiến lược của cán bộ Hội cấp trung ương, cấp tỉnh/thành, năng lực triển khai tổ chức thực hiện của cán bộ Hội cấp quận/huyện và cơ sở còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ Hội nhận thức chưa đầy đủ về tôn chỉ, mục đích, vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ của tổ chức Hội cũng như yêu cầu công tác vận động phụ nữ trong điều kiện mới, còn làm việc theo lối hành chính. Công tác cán bộ của từng cấp Hội còn thiếu chiến lược, công tác đào tạo chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn. Một số chủ trương công tác chỉ đạo chưa quyết liệt, thiếu giải pháp cụ thể. Một số cấp Hội thiếu chủ động trong vận động nguồn lực, còn trông chờ vào ngân sách nhà nước.

Đại hội đã rút ra 3 bài học kinh nghiệm từ thực tiễn phong trào và hoạt động Hội, đó là:

Bài học thứ nhất: Việc ban hành chủ trương, chính sách phù hợp tạo điều kiện cho sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới, cùng với việc quán triệt và lồng ghép giới trong các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đi đôi với những biện pháp chỉ đạo kiên quyết của cấp uỷ Đảng, Chính quyền; sự hỗ trợ, phối hợp đồng bộ, hiệu quả của các cấp, các ngành; sự quan tâm của toàn xã hội trong tổ chức thực hiện, là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của công tác phụ nữ và sự nghiệp bình đẳng giới.

Bài học thứ hai: Với vai trò chủ thể, là yếu tố trực tiếp quyết định sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới, phụ nữ Việt Nam phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao nhận thức, năng lực, trình độ mọi mặt, phát huy nội lực, tinh thần hợp tác, tương thân tương ái, chủ động giải quyết những vấn đề đặt ra đối với phụ nữ, bản thân và gia đình.

Bài học thứ ba: Các cấp Hội phải không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, chủ động tham mưu đề xuất và vận động thực hiện luật pháp chính sách về bình đẳng giới. Đội ngũ cán bộ Hội là yếu tố then chốt xây dựng tổ chức Hội vững mạnh; cán bộ Hội các cấp phải gương mẫu, đoàn kết, không ngừng nâng cao trình độ, năng lực; luôn năng động, sáng tạo, sâu sát cơ sở, gắn bó mật thiết, có trách nhiệm với hội viên, phụ nữ.

2. Phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2012 – 2017

Với tinh thần tiếp tục phát huy mạnh mẽ nội lực của các tầng lớp PN; coi việc xây dựng gia đình và xây dựng người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là trung tâm của các hoạt động của Hội, Đại hội đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của phong trào phụ nữ và Hội LHPN VN.

* Mục tiêu: Đoàn kết, vận động phụ nữ phát huy nội lực, chủ động, tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam yêu nước, có sức khỏe, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân hậu. Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ và thực hiện bình đẳng giới.

* 8 chỉ tiêu chủ yếu của nhiệm kỳ 2012 - 2017:

-80% trở lên phụ nữ được Hội tuyên truyền phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của của Đảng, Nhà nước và giáo dục phẩm chất đạo đức thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

-100% gia đình hội viên được tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không 3 sạch”; trong đó, 70% trở lên hộ gia đình đạt tiêu chuẩn “5 không, 3 sạch”.

-Đến cuối nhiệm kỳ, ít nhất 700.000 chủ hộ nghèo là phụ nữ được vay vốn và được Hội giúp đỡ, trong đó ít nhất 400.000 hộ thoát nghèo; hỗ trợ xây dựng và sửa chữa 10.000 mái ấm tình thương; vận động hội viên tiết kiệm tạo nguồn vốn phát triển sản xuất đạt 5.000 tỷ đồng.

-Hàng năm tư vấn nghề, giới thiệu và tạo việc làm cho 100.000 lao động nữ; đào tạo nghề cho 50.000 lao động nữ, trong đó 70% có việc làm sau học nghề.

-Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đề xuất được ít nhất 05 chính sách về các lĩnh vực hỗ trợ gia đình, hỗ trợ các nhóm phụ nữ đặc thù, lao động nữ, phát triển nguồn nhân lực nữ và cán bộ nữ.

-Hàng năm, 100% Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh/thành giám sát được ít nhất 02 chính sách; 100% Hội Liên hiệp phụ nữ cấp quận/huyện, 80% cơ sở Hội giám sát ít nhất 01 chính sách có liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới.

-100% cán bộ chủ chốt cấp tỉnh đạt chuẩn chức danh theo quy định; 90% trở lên cán bộ chủ chốt cấp huyện và Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở đạt chuẩn chức danh về trình độ chuyên môn và lý luận chính trị.

-Tỷ lệ thu hút hội viên đạt ít nhất 75% trong tổng số phụ nữ từ 18 tuổi trở lên.

* 3 khâu đột phá

-Tạo chuyển biến mới về chất lượng, hiệu quả vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm, giảm nghèo bền vững.

-Xây dựng được cơ chế qui định trách nhiệm của Hội trong công tác cán bộ nữ và chính sách phát triển nguồn nhân lực nữ.

-Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Hội các cấp, đặc biệt cấp Trung ương và cơ sở.

* Phong trào thi đuaPhụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đồng thời triển khai sâu rộng 2 cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” và phấn đấu rèn luyện các phẩm chất đạo đức “Tự tin - Tự trọng - Trung hậu - Đảm đang”.

* 6 nhiệm vụ trọng tâm:

Nhiệm vụ 1: Tuyên truyền, giáo dục, vận động phụ nữ thực hiện chủ trương, luật pháp, chính sách; rèn luyện phẩm chất đạo đức; nâng cao trình độ, nhận thức.

Nhiệm vụ 2: Vận động, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững.

Nhiệm vụ 3: Vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường.

Nhiệm vụ 4: Tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện và giám sát luật pháp, chính sách về bình đẳng giới.

Nhiệm vụ 5: Xây dựng và phát triển tổ chức Hội vững mạnh.

Nhiệm vụ 6. Tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế.

* 5 giải pháp lớn

-Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin, giáo dục, truyền thông của Hội.

-Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Hội các cấp.

-Cải tiến công tác chỉ đạo, điều hành và quản lý trong hệ thống Hội, khắc phục biểu hiện hành chính hóa, hình thức.

-Đầu tư cho công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn và phản biện xã hội phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng cấp Hội

-Mở rộng, nâng cao hiệu quả công tác phối hợp và vận động nguồn lực.

3. Bổ sung, sửa đổi Điều lệ Hội LHPN Việt Nam

Trên cơ sở tổng kết năm năm thực hiện Ðiều lệ Hội được Ðại hội X thông qua, Điều lệ Hội (sửa đổi, bổ sung) trình Đại hội Đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XI đã sửa đổi, bổ sung một số nội dung để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ công tác Hội trong thời kỳ mới, phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).

3.1 Quan điểm sửa đổi:

- Tiếp tục kiên định tôn chỉ, mục đích của Hội, mở rộng tính liên hiệp của tổ chức Hội.

- Bám sát chủ trương của Đảng trong các văn kiện Đại hội XI, Nghị quyết các kỳ họp BCH khóa X, bám sát thực tế hoạt động, tôn chỉ mục đích, để bổ sung, sửa đổi cho phù hợp nhằm phát huy vai trò và thực hiện tốt sứ mệnh của Hội.

- Kế thừa những nội dung cơ bản của Điều lệ hiện hành, đồng thời bổ sung một số nội dung mới do yêu cầu hoạt động Hội đặt ra song chưa được quy định trong Điều lệ, đảm bảo phù hợp thực tiễn và chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

- Phát huy dân chủ, trí tuệ trong thảo luận, tập hợp đầy đủ các ý kiến góp ý của cán bộ Hội, hội viên và các tầng lớp phụ nữ.

Với các quan điểm, nguyên tắc nêu trên, Điều lệ Hội (sửa đổi, bổ sung) được Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XI thông qua gồm 08 chương và 25 điều.

3.2 Về bố cục:

-Tăng 1 Chương so với Điều lệ hiện hành do tách Chương Công tác kiểm tra, khen thưởng, kỷ luật thành hai chương: Chương Công tác kiểm tra và Chương Khen thưởng, kỷ luật.

-Tăng 3 Điều so với Điều lệ hiện hành: 01 Điều quy định riêng về cơ quan lãnh đạo Hội các cấp (Điều 11); 01 Điều quy định riêng về hình thức bầu cử và điều kiện trúng cử (Điều 15); tách Khoản 3,4,5 Điều 13 Điều lệ hiện hành thành 02 Điều về bầu bổ sung và chỉ định Ban Chấp hành, Đoàn Chủ tịch, Ban Thường vụ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch.

3.3 Về nội dung:

Phần mở đầu: Bổ sung quy định “Hội LHPN Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị của Đảng…” để khẳng định rõ vai trò, sứ mệnh to lớn của tổ chức Hội.

Về chức năng của Hội (Điều 1): Bổ sung nội dung giáo dục “chính trị, tư tưởng, lý tưởng cách mạng, phẩm chất đạo đức, lối sống; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;Vận động các tầng lớp phụ nữ chủ động, tích cực thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; vận động, hỗ trợ phụ nữ nâng cao năng lực, trình độ, xây dựng gia đình hạnh phúc; chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ” để thực hiện chức năng của các đoàn thể theo tinh thần Cương Lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung, phát triển 2011).

Về điều kiện trở thành hội viên (Điều 3): Thay từ “kết nạp” bằng từ “công nhận” để đưa ra quy định thủ tục trở thành hội viên của Hội thật đơn giản, dễ thực hiện.

Về đối tượng hội viên nữ công nhân, viên chức, công nhân lao động và nữ thanh niên (Điều 4): Bỏ quy định “sinh hoạt trong tổ chức công đoàn” ở Điều 4 vì việc quy định như vậy mâu thuẫn với điều 3 về điều kiện trở thành hội viên. Bổ sung nhóm đối tượng hội viên là nữ cán bộ, công chức, viên chức và công nhân lao động không sinh hoạt trong tổ chức Công đoàn là lự.c lượng nòng cốt trong phong trào phụ nữ. Bổ sung quy định về hội viên là nữ thanh niên, trong đó khẳng định hội viên là nữ thanh niên là lực lượng xung kích trong phong trào phụ nữ.

Về hệ thống tổ chức Hội các cấp: Bổ sung quy định: “Cơ quan chuyên trách Hội cấp Trung ương, tỉnh, huyện là cơ quan tham mưu giúp việc cho Ban Chấp hành, Đoàn Chủ tịch hoặc Ban Thường vụ cùng cấp” nhằm tạo cơ sở pháp lý trong hoạt động của hệ thống Hội.

Về chỉ định Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Chủ tịch và các Phó Chủ tịch (Điều 16): Để tăng cường hiệu lực, nâng cao trách nhiệm của lãnh đạo khi triển khai công tác, Điều lệ đã sửa đổi quy định chỉ định chính thức, không chỉ định lâm thời đối với các chức danh Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, các chức danh chủ chốt. Sửa đổi quy định về nhiệm kỳ hoạt động của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, các chức danh chủ chốt được chỉ định không nhất thiết phải đủ năm năm (do thời gian được tính là đến nhiệm kỳ đại hội của Hội cùng cấp theo quy định chung).

Về quy định mức đóng hội phí (Điều 24): Nâng mức hội phí từ 500 đồng lên 1.000 đồng/hội viên/tháng để tạo nguồn kinh phí hoạt động cho Hội LHPN cơ sở.

Về thẩm quyền Hướng dẫn thi hành Điều lệ Hội (Điều 25): Nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo định hướng của Ban Chấp hành và hiệu lực pháp lý của văn bản Hướng dẫn thi hành Điều lệ, Dự thảo Điều lệ Hội sửa đổi, bổ sung giao thẩm quyền Hướng dẫn thi hành cho Ban Chấp hành Trung ương Hội LHPN Việt Nam.

4. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành, Đoàn Chủ tịch, Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Hội LHPN VN khóa XI đảm bảo tiêu chuẩn và quy trình nhân sự

Đại hội đã quyết định số lượng BCH TW Hội LHPN Việt Nam khóa XI nhiệm kỳ 2012-2017 là 169 ủy viên, tại đại hội đã bầu 163 ủy viên. Giao BCH TW Hội khóa XI bầu bổ sung 6 ủy viên khi có đủ điều kiện. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành TW Hội LHPN Việt Nam khóa XI đã thống nhất số lượng ủy viên Đoàn Chủ tịch là 33 ủy viên (tăng 6 so với khoá X) và đã bầu 32 ủy viên, trong đó tăng cơ cấu miền núi, dân tộc. Ban Chấp hành đã tín nhiệm bầu đ/c Nguyễn Thị Thanh Hòa - Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội LHPNVN khóa X tiếp tục tái cử Chủ tịch Hội LHPNVN khóa XI. Ban chấp hành cũng đã bầu 7 Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam, trong đó có 4 đồng chí tái cử.

Với tinh thần làm việc nghiêm túc, trách nhiệm cao, Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XI đã thành công tốt đẹp, mở ra bước phát triển mới của phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và phát triển của đất nước.

I.MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG TUYÊN TRUYỀN

Để giúp cho công tác tuyên truyền về Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI đạt kết quả, là một trong những yếu tố quan trọng giúp Hội LHPN VN triển khai thực hiện thắng lợi NQ ĐH PNTQ, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, ĐCT TW Hội LHPN VN mong muốn, các cấp ủy Đảng, đặc biệt là đội ngũ Báo cáo viên của Đảng quan tâm tuyên truyền sâu rộng một sô nội dung:

1. Đẩy mạnh tuyên truyền về sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, thành tựu bình đẳng giới, kết quả thực hiện Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị về công tác Phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước của các cấp, các ngành, các địa phương; tiếp tục làm chuyển biến sâu sắc hơn nữa quan điểm của Đảng: Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và từng gia đình. Trong đó, hạt nhân lãnh đạo là các cấp ủy đảng, trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể là phụ nữ mà nòng cốt là các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

2. Tập trung tuyền truyền về thành công của Đại hội đại biểu PNTQ lần thứ XI, nhất là kết quả của phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN VN 5 năm qua, mục tiêu, phương hướng 5 năm tới; những mô hình, điển hình tập thể, các nhân tiêu biểu.

3. Tiếp tục tuyên truyền về vai trò, vị trí, truyền thống, phẩm chất tốt đẹp và những đóng góp to lớn của của phụ nữ Việt Nam; sự trưởng thành và lớn mạnh của tổ chức Hội LHPNVN, những đóng góp nổi bật của Hội đối với phong trào phụ nữ Việt Nam và đối với đất nước.

ĐOÀN CHỦ TỊCH TW HỘI LHPN VN




[1] Nguồn: Điều tra lao động và việc làm Việt Nam năm 2010, Tổng cục thống kê.

[2] Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương, năm 2010.

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video