Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng vào công tác phụ nữ trong bối cảnh chuyển đổi số

Tóm tắt
Phụ nữ là một nửa của nhân loại, cùng với các giới tính khác tạo nên xã hội loài người. Phát huy vị trí, vai trò của phụ nữ không chỉ tạo mọi cơ hội, điều kiện tham gia chủ động, tích cực vào các hoạt động xã hội mà còn là ý thức thụ hưởng thành quả của sự phát triển. Công tác phụ nữ (CTPN) là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, gồm hệ thống đảng, chính quyền nhà nước, đoàn thể, gia đình và bản thân phụ nữ. Từ công tác này, phụ nữ ý thức về sự giải phóng bản thân, phát huy vai trò đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Thông qua phương pháp tổng thuật, nghiên cứu và phân tích tài liệu, bài viết tập trung làm nổi bật ba phương diện: giải phóng dân tộc - giải phóng xã hội sẽ không triệt để nếu không giải phóng phụ nữ, nam - nữ bình quyền là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và bản thân phụ nữ và vai trò của CTPN trong cách mạng Việt Nam. Từ đó, đề xuất những giải pháp vận dụng vào CTPN trong bối cảnh chuyển đổi số (CĐS), góp phần tạo ra sự bình đẳng giới toàn diện, thực chất.
Từ khóa: Tư tưởng; quan điểm; công tác phụ nữ; chuyển đổi số.
1. Đặt vấn đề
Hồ Chí Minh là vị lãnh đạo sáng suốt, không chỉ nhìn nhận sự đóng góp to lớn của phụ nữ trong xã hội mà còn khẳng định phụ nữ có năng lực giải phóng bản thân mình và tham gia giải phóng dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) đã kế thừa, phát huy những giá trị này và không ngừng nhấn mạnh việc bảo vệ, phát triển quyền lợi, năng lực của phụ nữ, đặc biệt là trong các chủ trương, chính sách mới. Công cuộc CĐS đang là cú huých, làm chuyển đổi đời sống xã hội và mối quan hệ con người, CTPN cũng là một lĩnh vực không ngoại lệ. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng vào CTPN trong bối cảnh CĐS là một yêu cầu cấp thiết, nhằm bảo đảm phụ nữ Việt Nam không chỉ phát huy tối đa tiềm năng, mà còn đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển đất nước trong thời đại số hóa. Bước sang thế kỷ XXI, CTPN cần nhận ra những thách thức và cơ hội mà quá trình CĐS mang lại cho phụ nữ, đồng thời đề xuất những giải pháp phù hợp góp phần xây dựng lực lượng phụ nữ Việt Nam có tri thức, năng lực và bản lĩnh trong thời đại mới. Bài viết mong muốn làm rõ tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh và các chỉ đạo của Đảng, từ đó giúp định hướng cho CTPN phát triển bền vững trong bối cảnh chuyển đổi số và cách mạng công nghiệp 4.0.
2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu định tính: Nghiên cứu sử dụng một số cơ sở dữ liệu từ tác phẩm Hồ Chí Minh, Toàn tập, các cương lĩnh, chỉ thị, nghị quyết, nghiên cứu, bài viết, báo cáo… để trích dẫn hệ thống và phân tích tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; quan điểm cũng như giải pháp của Đảng CSVN về CTPN thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá và hội nhập quốc tế theo các luận điểm trong bài viết.
Phương pháp phân tích tài liệu: được sử dụng để hệ thống hoá các dữ liệu, phân tích tìm ra các tư tưởng hay mối liên hệ biện chứng giữa những cơ hội và thách thức đối với phụ nữ và CTPN trong bối cảnh CĐS.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Một số khái niệm cơ bản
Phụ nữ Việt Nam luôn khẳng định được vị thế trong suốt chiều dài kiến thiết và bảo vệ Tổ quốc. Huy động nguồn lực của cả phụ nữ và nam giới vào xây dựng và phát triển đất nước, một mặt phát huy kinh nghiệm khác nhau do các đặc điểm xã hội và sinh học, một mặt tăng cường tính trách nhiệm về lợi ích và hiệu quả của mỗi giới.
CTPN được hiểu là “toàn bộ các hoạt động của Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, xã hội chăm lo cho phụ nữ tiến bộ về mọi mặt, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ” (Học viện Phụ nữ Việt Nam, 2007). Nói đến CTPN là nói đến các hoạt động từ tham mưu, đề xuất tạo cơ chế, chính sách thúc đẩy phụ nữ có cơ hội bộc lộ tiềm năng của bản thân cống hiến cho xã hội đến các hoạt động thực tiễn kiểm chứng sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm của đông đảo các tầng lớp phụ nữ để tự thay đổi cuộc đời mình và góp phần tạo nên sự phát triển bền vững cho cộng đồng.
Với cách tiếp cận này, xã hội có thể được hưởng lợi từ ý chí và sự tham gia của phụ nữ Việt Nam vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng thể hiện sự ủng hộ đối với việc tăng số lượng và chất lượng phụ nữ tham gia trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua hệ thống chính sách, pháp luật quan trọng.
CĐS là việc ứng dụng nền tảng số để tổng hợp dữ liệu lớn, số hóa, đưa vào quy trình để đạt được mục tiêu quản lý và phát triển. CĐS trước hết phải nâng cao nhận thức của con người, để mỗi người dân ý thức đồng hành với cách quản lý mới. CĐS gắn với yêu cầu phát triển nguồn nhân lực số và nâng cao năng lực số. Phụ nữ vẫn bị coi là chưa có thế mạnh về kỹ thuật và công nghệ. Do đó, CĐS với phụ nữ nói chung và cán bộ nữ nói riêng sẽ là một thách thức mà CTPN phải xác định đây là mũi nhọn tạo ra khâu đột phá.
Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng vận dụng vào CTPN trong bối cảnh CĐS là lấy nền tảng lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam để gia tăng giá trị, năng lực của phụ nữ tiên phong thử nghiệm, vận dụng các công nghệ và mô hình mới vào thực hiện các quyền chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội. Như vậy, CTPN trong bối cảnh CĐS sẽ giúp gia tăng giá trị, năng lực áp dụng sáng tạo công nghệ, dữ liệu của phụ nữ vào chính quyền dưới các hình thức như: bầu cử và ứng cử, tham gia phát triển kinh tế, tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước, từng bước khẳng định tiếng nói và vị thế của phụ nữ trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của đất nước.
3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác phụ nữ
3.2.1. Hồ Chí Minh khẳng định sự nghiệp “giải phóng phụ nữ” là một phần không thể thiếu trong giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội
“Giải phóng phụ nữ” thực chất là giải phóng con người khỏi áp bức, bất công. Phụ nữ Việt Nam đồng thời chịu hai tầng áp bức là mất độc lập tự do và bị xem khinh so với nam giới. Ách áp bức dân tộc bị xem khinh là nô lệ. Ách áp bức xã hội là gông cùm của tư tưởng “trọng nam khinh nữ”. Trong chế độ phong kiến, thực dân, người dân bị áp bức tàn tệ, kìm kẹp trong xiềng xích, bóc lột thì phụ nữ bị tác động nặng nề, tàn khốc hơn nhiều. Phụ nữ là lực lượng “một nửa” cùng với nam giới lật đổ ách xiềng xích đó, cùng nhau tạo nên sự thành công của cách mạng.
“Giải phóng phụ nữ” chính là việc phụ nữ phải tự giải phóng mình, bắt đầu từ việc nâng cao nhận thức, ý thức về con người mình, về giới mình, từ đó đi đến hành động gách vác, đảm nhận trách nhiệm để xã hội nhìn nhận và đánh giá đúng vị trí, vai trò của phụ nữ. Trong bối cảnh đất nước mất độc lập, nhân dân mất tự do, toàn dân phải chung sức, đồng lòng đứng lên thì nam hay nữ đều cần phải giải phóng để đạt đến mục tiêu của dân tộc. Tuy nhiên, phụ nữ cần cách mạng hơn, tiến bộ hơn, nỗ lực hơn vì sự nghiệp này rất khó, nếu không kiên định khó mà thành công.
Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, “giải phóng phụ nữ”, chính là bảo đảm quyền lợi của phụ nữ và là bản chất của cuộc cách mạng giành chính quyền và thay đổi thiết chế xã hội từ phong kiến sang chủ nghĩa xã hội. Do đó, “giải phóng phụ nữ” phải từ chính bản thân người phụ nữ, tổ chức của phụ nữ, phải toàn diện từ trong gia đình đến ngoài xã hội, từ trong nhận thức tư tưởng của phụ nữ đến hành động của họ. Chỉ có như vậy, xã hội mới thực sự bình đẳng, dân tộc mới thực sự tự do, nhân dân mới ấm no và phụ nữ mới có được hạnh phúc.
3.2.2. Hồ Chí Minh khẳng định tư tưởng “nam - nữ bình quyền” là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và của bản thân chính người phụ nữ
Thuật ngữ “bình đẳng giới” chưa có trong thời kỳ Bác lãnh đạo cách mạng. Nhưng tư tưởng “bình đẳng” và vấn đề “nam - nữ bình quyền” luôn là mạch chảy trong tư duy của Người. Bác khẳng định:
“Đàn bà cũng được tự do;
Bất phân nam nữ cũng cho bình quyền”.
(Mười chính sách của Mặt trận Việt Minh do Hồ Chí Minh soạn thảo năm 1941)
Bác nhận ra cội rễ của bất bình đẳng nam - nữ là từ tư tưởng văn hóa cổ hủ, lạc hậu lâu đời. Do đó, Bác nhận định đây là cuộc cách mạng rất khó khăn và chông gai để đánh bật gốc rễ của sự phân biệt đối xử. Người cho rằng, “bình quyền” là có quyền như nhau, ngang nhau nhưng không cào bằng, chia đều. Tùy theo hoàn cảnh, nhu cầu và điều kiện để tham gia, chia sẻ trách nhiệm trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội.
Sự nghiệp “bình đẳng nam - nữ” chỉ thực sự bền vững nếu có sự chung tay của toàn xã hội, bắt đầu từ các cấp lãnh đạo trung ương đến địa phương đến mỗi người dân ở từng gia đình, cộng đồng xã hội. Nên ở mỗi nơi, Bác đều mong muốn người đứng đầu nơi đó phải có tư tưởng trọng phụ nữ để đưa vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, giao nhiệm vụ và trách nhiệm cho phụ nữ.
Bản thân phụ nữ, bằng sự trải nghiệm và kinh nghiệm của giới nữ cũng cần khẳng định được khả năng làm việc, sự tham gia và cống hiến của mình vào các công việc chung của cách mạng. Phụ nữ cũng cần nhận thức sâu sắc để gánh vác cả ba vai trò: tham gia lao động sản xuất, chăm lo và nuôi dưỡng trong gia đình và gách vác các công việc của cộng đồng. Chỉ có như vậy, phụ nữ mới khẳng định được vị trí trong mối quan hệ với nam giới, vai trò đóng góp trong xã hội và vị thế xác lập trong xã hội Việt Nam.
3.2.3. Hồ Chí Minh khẳng định CTPN là một bộ phận quan trọng - huy động sự tham gia của phụ nữ trong cách mạng Việt Nam
Công tác phụ nữ một mặt huy động nguồn lực của phụ nữ vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, một mặt chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ. Do đó, việc đầu tiên, theo Bác, là phải bảo vệ sức khỏe phụ nữ, tức là chú trọng vào sức lao động của phụ nữ. Hơn nữa, phụ nữ còn là người mẹ, việc một bà mẹ khỏe mạnh sẽ sinh ra những đứa con khỏe mạnh, tiếp tục tạo dựng nguồn nhân lực cho đất nước. Việc thứ hai là nắm bắt nhu cầu, nguyện vọng, giải quyết những khó khăn, vướng mắc, để phụ nữ được tiến bộ về mọi mặt. Việc thứ ba là tổ chức các phong trào, cuộc vận động, nhiệm vụ để huy động sự tham gia, cống hiến, sáng tạo của phụ nữ. Có như vậy, phong trào phụ nữ và hoạt động của công tác phụ nữ mới được nâng cao. Qua đó, lựa chọn được những gương phụ nữ ưu tú, những tập thể phụ nữ xuất sắc từ thực tiễn. Việc thứ tư là bình bầu, tiến cử phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý để các cá nhân phụ nữ tiêu biểu thể hiện được tài năng, trí tuệ và đạo đức cách mạng của mình trong các công việc chung của đất nước.
Theo Người, sự tham gia của phụ nữ rất có ý nghĩa trong công tác phụ nữ. Điều đó được đo bằng tỷ lệ phụ nữ tham gia công tác quản lý, lãnh đạo; tham gia các hội nghị, hội thảo; tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn đảm bảo cân bằng giữa hai giới, đặc biệt đối với phụ nữ dân tộc thiểu số, phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Các cấp ủy cần quan tâm đến công tác cán bộ nữ, tránh để xảy ra tình trạng “Cả hội nghị hơn 200 đại biểu, thế mà chỉ có 5 phụ nữ, trong 5 phụ nữ lại không có một phụ nữ dân tộc thiểu số nào… Một cuộc họp như thế này, mà quên mất vai trò phụ nữ, thì chắc ở địa phương, các chú cũng quên mất vai trò phụ nữ” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12).
Có thể nói, công tác phụ nữ đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của phụ nữ trong gia đình, ngoài xã hội cũng như trong cách mạng Việt Nam. Chính vì thế, bản thân phụ nữ luôn tự phát huy, vươn lên, các cấp ủy Đảng luôn quan tâm, coi trọng và thúc đẩy nguồn lực phụ nữ. Huy động cả hai giới chính là huy động cả hai bàn tay tạo nên tiếng vỗ, tạo ra sự phát triển bền vững cho xã hội.
3.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác phụ nữ
3.3.1. Công tác phụ nữ phải phát huy vai trò, tiềm năng, địa vị to lớn của các tầng lớp phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
Phát huy vai trò và tiềm năng to lớn của phụ nữ là tạo mọi điều kiện, cơ hội để các tầng lớp phụ nữ tham gia vào các lĩnh vực, thực hiện bình đẳng giới toàn diện và hiệu quả. Từ đó, nâng cao địa vị của phụ nữ trong xã hội.
Quan điểm trên phải được thể hiện trong thực tiễn với những chủ trương, chính sách và việc làm thiết thực, cụ thể và hiệu quả, vận dụng phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và thực trạng tình hình phụ nữ, CTPN của từng địa phương, các ngành, các cấp.
3.3.2. Công tác phụ nữ phải sát hợp với từng đối tượng, vùng/miền, phát huy được tinh thần làm chủ, tiềm năng, sức sáng tạo và khả năng đóng góp cao nhất của các tầng lớp phụ nữ
Nội dung của CTPN phải phù hợp, đáp ứng nhu cầu cơ bản, thiết thân của các tầng lớp phụ nữ trong các ngành nghề ở từng địa phương, đơn vị. CTPN cần chú ý đến các vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số, quan tâm đến phụ nữ cả về vật chất và tinh thần. Chú ý đến đào tạo nghề và tạo việc làm cho phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ làm việc trong các khu công nghiệp tập trung, phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn.
Huy động, tạo điều kiện để phụ nữ doanh nhân, trí thức, thanh niên... tham gia đóng góp, phát huy tiềm năng trên mọi lĩnh vực, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước. CTPN vừa kết nối, đoàn kết, tập hợp các tầng lớp phụ nữ, vừa là tổ chức đại diện để quan tâm, bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ. Đồng thời, CTPN là môi trường phụ nữ có điều kiện thể hiện mình, chứng minh khả năng của mình, cam kết và thực hiện tốt các vai trò của mình trong mối quan hệ với cộng đồng - xã hội.
3.3.3. Công tác phụ nữ sẽ xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ
Trong công tác cán bộ nữ hiện nay, cần quán triệt sâu sắc và thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, luân chuyển... tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia các vị trí lãnh đạo chủ chốt, ra quyết định. Trong đào tạo, bồi dưỡng, cần xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo cán bộ nữ theo từng lĩnh vực, chú trọng các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ và vị trí công viêc, theo quy hoạch, vận dụng chính sách cử tuyển, hỗ trợ kinh phí… đối với nguồn cán bộ nữ trong các dân tộc thiểu số, tôn giáo và trong các lĩnh vực có tỷ lệ cán bộ nữ quá thấp.
Cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ là một bộ phận trong đội ngũ cán bộ nữ. Để đáp ứng yêu cầu CTPN hiện nay, cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ Hội Phụ nữ ở các cấp, các ngành có đủ tiêu chuẩn, trình độ chính trị, bản lĩnh và năng lực, giàu nhiệt tình với công tác Hội và sự nghiệp bình đẳng giới.
3.3.4. CTPN là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và từng gia đình
Quan điểm trên của Đảng nhằm nâng cao nhận thức của tất cả các thành viên trong xã hội về trách nhiệm đối với CTPN, không chỉ là trách nhiệm, công việc của các tầng lớp phụ nữ, của Hội LHPN, cơ quan dân vận. Để thực hiện CTPN hiệu quả, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, từ cấp ủy Đảng, chính quyền đến các tổ chức chính trị - xã hội và sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có phụ nữ.
Vai trò của cấp ủy Đảng là định hướng, chỉ đạo về công tác phụ nữ, công tác cán bộ nữ; chính quyền phối hợp với tổ chức Hội để tăng cường sự tham gia quản lý nhà nước. Các đoàn thể là nòng cốt trong tham mưu, đề xuất và trực tiếp tổ chức, tập hợp, động viên đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện đường lối, chủ trương. Phụ nữ là chủ thể và Hội LHPN các cấp chủ động, tích cực trong các phong trào, cuộc vận động của phụ nữ trên toàn quốc.
3.4. Giải pháp thực hiện công tác phụ nữ trong bối cảnh chuyển đổi số theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
3.4.1. Xây dựng, sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật về CTPN trong bối cảnh CĐS
Đảng cần ban hành các chính sách mới về CTPN trong bối cảnh CĐS, đặc biệt là các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng kiến thức - kỹ năng - năng lực về CĐS, theo lát cắt ngang từ chính phủ số - kinh tế số - xã hội số đến lát cắt dọc là thể chế số - nhân lực số - hạ tầng số. Luật Bình đẳng giới cần được sửa đổi, bổ sung đưa vấn đề bình đẳng giới vào quy trình vận hành và thực hiện CĐS. Chính phủ cần có các chính sách bảo vệ phụ nữ trong môi trường làm việc số, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức ưu tiên tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực nữ trong các ngành công nghệ thông tin, kỹ thuật số và kinh tế số.
Nhà nước cần phát triển các chính sách an sinh xã hội, bảo đảm quyền lợi cho phụ nữ trong quá trình CĐS, đặc biệt là phụ nữ làm việc tại các lĩnh vực dễ bị ảnh hưởng bởi số hóa như sản xuất truyền thống, dịch vụ thủ công.
3.4.2. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng về vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh - quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam vào công tác phụ nữ trong bối cảnh chuyển đổi số
Chú trọng chuyên đề “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng CSVN vào CTPN trong bối cảnh CĐS vào các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ nữ trong hệ thống chính trị và cán bộ Hội LHPN các cấp nhằm hình thành cách nhìn mới, nếp suy nghĩ mới và “xoá bỏ cái tâm lý tự ti và ỷ lại, phải có ý chí tự cường, tự lập; phải nâng cao lên mãi trình độ chính trị, văn hoá, kỹ thuật”.
Bên cạnh đó, giáo dục phụ nữ về trách nhiệm tham gia vào tiếp cận và ứng dụng công cuộc CĐS của quốc gia, từ đó phát huy vai trò tích cực của họ trong xây dựng đất nước. Phụ nữ chủ động tiếp cận các khóa đào tạo về CĐS, phổ biến các kết quả nghiên cứu về khoa học và công nghệ, từng bước nâng cao năng lực số của bản thân gồm: năng lực sử dụng máy tính, năng lực công nghệ thông tin, năng lực thông tin, năng lực truyền thông (Unesco, 2018).
3.4.3. Phát huy vai trò lãnh đạo của phụ nữ trong quá trình chuyển đổi số (CĐS)
Tư tưởng Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò quan trọng của phụ nữ trong việc tham gia vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là trong các ngành liên quan đến công nghệ thông tin và CĐS. Việc bổ nhiệm phụ nữ vào các vai trò quản lý không chỉ đảm bảo sự bình đẳng giới mà còn giúp phát huy hết tiềm năng của phụ nữ trong quá trình phát triển.
Khuyến khích phụ nữ tham gia các chương trình bồi dưỡng, đào tạo kỹ năng lãnh đạo trong bối cảnh số hóa, giúp họ tự tin, nắm bắt cơ hội để quản lý và dẫn dắt trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
Đảng và Nhà nước thường xuyên có kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ chính trị, chuyên môn cho phụ nữ lãnh đạo, quản lý nói chung, nhất là đối với phụ nữ lãnh đạo, quản lý ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; quan tâm tới lực lượng cán bộ nữ trẻ có năng lực, đạo đức và khả năng quản lý để đào tạo họ trở thành cán bộ lãnh đạo ở các cấp; có nhiều loại hình lớp bồi dưỡng, tập huấn giúp phụ nữ ngày càng hiểu và vận dụng tốt hơn tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam để họ tự tin, không ỷ lại, trông chờ, vươn lên trong cuộc sống.
3.4.4. Nâng cao nhận thức và kiến thức về công tác phụ nữ trong bối cảnh chuyển đổi số cho các tầng lớp phụ nữ
Trước hết, tổ chức các khóa học, hội thảo và chương trình truyền thông nhằm giúp phụ nữ hiểu rõ tầm quan trọng của CĐS trong công việc và đời sống. Các cấp Hội Phụ nữ cần đóng vai trò chủ đạo trong việc truyền thông, hướng dẫn về khâu đột phá về công nghệ thông tin, nâng cao năng lực số cho các tầng lớp phụ nữ để: (1) Biết vận hành thiết bị và phần mềm; (2) Xử lý và thu thập thông tin và dữ liệu; (3) Có khă năng làm việc trên môi trường số; (4) Có khả năng sáng tạo nội dung số; (5) Đảm bảo an ninh và an toàn trong không gian mạng; (6) Được học tập, nâng cao trình độ và phát triển kỹ năng số; (7) Vận dụng CĐS vào công việc, nghề nghiệp và cuộc sống. Từ đó, giúp phụ nữ sử dụng công nghệ thông tin và làm quen với các nền tảng số hóa trong lao động, kinh doanh và quản lý gia đình.
Thứ hai, đổi mới hình thức tuyên truyền, vận động, trọng tâm là: (1) Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác truyền thông; (2) Kết hợp tuyên truyền, vận động trực tiếp và gián tiếp; (3) Sử dụng sự ảnh hưởng của người có uy tín, tích cực trong cộng đồng; (4) Có chuyên trang, chuyên mục, chương trình về phụ nữ gắn với CĐS; (5) Phát triển dịch vụ tin nhắn, các ứng dụng trên điện thoại thông minh; (6) Hỗ trợ phụ nữ tiếp cận các dịch vụ công trên nền tảng công nghệ số; sử dụng điện thoại thông minh để tiếp cận thông tin, kiến thức bổ ích theo nhu cầu.
3.4.5. Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp và phát triển kinh tế trong thời đại số
Đảng và Nhà nước cần đề xuất các chính sách hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp dựa trên nền tảng công nghệ số, giúp họ dễ dàng tiếp cận vốn, đào tạo kỹ năng và kiến thức kinh doanh trực tuyến. Các mô hình kinh doanh số như thương mại điện tử, kinh doanh dịch vụ số cần được giới thiệu và nhân rộng trong các hội phụ nữ.
Xây dựng các chương trình hỗ trợ phụ nữ nông thôn, phụ nữ dân tộc thiểu số tiếp cận công nghệ thông tin, nhằm giúp họ phát triển kinh tế, cải thiện đời sống, thoát nghèo và nâng cao vai trò của phụ nữ trong gia đình và cộng đồng.
Hỗ trợ đào tạo nghề cho phụ nữ thông qua các chương trình giáo dục trực tuyến và các nền tảng học tập số, nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết để phụ nữ có thể chủ động nắm bắt cơ hội trong thời đại công nghệ 4.0.
Khuyến khích phụ nữ tham gia các chương trình đào tạo công nghệ, phát triển kỹ năng số từ cơ bản đến nâng cao, tạo cơ hội cho họ tiếp cận và làm chủ công nghệ trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh trực tuyến và thương mại điện tử.
3.4.6. Thúc đẩy chuyển đổi số trong các hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp
Trong bối cảnh CĐS, Hội LHPN các cấp cần đẩy mạnh khâu đột phá ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động trong bối cảnh CĐS, bằng các hoạt động cụ thể: (1) Đẩy mạnh sử dụng phần mềm trong quản lý hội viên, thu hội phí và các hoạt động quản lý tài chính của Hội; (2) Cán bộ Hội các cấp được tập huấn, bồi dưỡng sử dụng thành thạo công nghệ số ứng dụng trong quản lý, điều hành; (3) Ban hành quy tắc giao tiếp, ứng xử trên mạng xã hội; (4) Sử dụng mạng xã hội, trang web và ứng dụng di động như một kênh truyền thông chính thức để phổ biến thông tin, tuyên truyền về các chương trình, phong trào, và chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến CTPN trong bối cảnh CĐS.
Về nội dung hoạt động, các cấp Hội LHPN Việt Nam chú trọng: (1) Gắn kết các giá trị truyền thống và hiện đại về văn hóa, gia đình, phát triển bản thân; (2) Xây dựng các mô hình, chương trình theo nhu cầu thực tế; (3) Chăm lo, bảo vệ các đối tượng yếu thế trong xã hội; (4) Phát huy giá trị của phụ nữ Việt Nam thời đại mới.
Về phương thức hoạt động, các cấp Hội chủ động: (1) Đổi mới hình thức vận động, thu hút hội viên theo nhu cầu, tích hợp CĐS; (2) Đa dạng cách thức tổ chức, hình thức sinh hoạt đáp ứng nhu cầu và thị hiếu các tầng lớp phụ nữ kết hợp cả trực tiếp và gián tiếp.
4. Kết luận
Có thể nói, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng vào CTPN trong bối cảnh CĐS không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết, mà còn là nền tảng quan trọng để phát huy vai trò của phụ nữ trong thời đại mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh với những giá trị cốt lõi về bình đẳng nam - nữ, sự tôn trọng và đề cao vị thế của phụ nữ trong xây dựng và phát triển đất nước vẫn còn nguyên giá trị và cần được tiếp tục phát huy trong cuộc cách mạng 4.0. Đồng thời, các chủ trương, đường lối của Đảng về CTPN trong bối cảnh CĐS đã chỉ rõ hướng đi cụ thể, giúp phụ nữ Việt Nam tự tin tham gia vào quá trình hiện đại hóa, phát triển kinh tế số và xã hội thông minh. Để đạt được mục tiêu này, việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về CĐS, cũng như xây dựng các chương trình hỗ trợ phụ nữ phát triển kỹ năng số là vô cùng quan trọng. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Đảng, chính quyền và Hội LHPN Việt Nam trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng sẽ là yếu tố then chốt để thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ, đảm bảo phụ nữ không bị bỏ lại phía sau trong quá trình CĐS. Qua đó, phụ nữ Việt Nam sẽ có điều kiện thuận lợi để không ngừng học tập, nâng cao trình độ và khẳng định vai trò, vị thế của mình, đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển bền vững và thịnh vượng của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hồ Chí Minh. (2002). Toàn tập, tập 6 (Thư gửi phụ nữ nhân kỷ niệm Quốc tế phụ nữ 8/3 và khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 1952). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Học viện Phụ nữ Việt Nam. (2007). Tập bài giảng Nhập môn công tác phụ nữ. Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
Hồ Chí Minh. (2002). Toàn tập, tập 2. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh. (2001). Toàn tập, tập 2. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh. (2001). Toàn tập, tập 12. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh. (2009). Toàn tập, tập 8. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh. (2009). Toàn tập, tập 9. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh. (2009). Toàn tập, tập 10. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh. (2002). Toàn tập, tập 11. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh. (2002). Toàn tập, tập 12. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh. (2009). Toàn tập, tập.13. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh. (2009). Toàn tập, tập.14. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh. (2009). Toàn tập, tập.15. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tân Sinh (Hồ Chí Minh). (2015). Đời sống mới. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.