Phòng chống bạo lực gia đình: Có Luật nhưng chưa đủ
Trong những năm qua, tình trạng BLGĐ ở nước ta đã và đang diễn ra khá phổ biến. Người chịu nhiều nhất là phụ nữ, trẻ em. Theo một kết quả nghiên cứu quốc tế, có từ 20- 50% số phụ nữ Việt Nam đang là nạn nhân của BLGĐ dưới nhiều hình thức mức độ khác nhau; phụ nữ trong độ tuổi từ 15 - 44 tuổi có nguy cơ là nạn nhân của BLGĐ và hiếp dâm cao hơn so với tai nạn xe máy, ung thư và bệnh sốt rét.
Trẻ em cũng là đối tượng cao bị bạo hành gia đình. Một nghiên cứu do Viện Nghiên cứu Thanh niên tiến hành tại 6 tỉnh của miền Bắc, miền Trung với cỡ mẫu 1.240 em là học sinh các trường tiểu học và THCS cho thấy 46% bố mẹ các em thường xuyên phạt bằng cách này hay cách khác khi có lỗi; 50% nói rằng cha mẹ thỉnh thoảng có phạt... Tình trạng trẻ em bị đánh đập và cưỡng hiếp càng ngày có chiều hướng gia tăng.
Trên mặt báo in, báo mạng đều nhan nhản những tin tức về BLGĐ mất nhân tính, gây hậu quả nghiêm trọng. Nào là chém giết, đốt vợ/ chồng chỉ vì ghen tuông; mẹ ném con xuống giếng; chồng giết vợ, con; hành hạ cha mẹ già... Mức độ gây hiệu quả ngày càng trầm trọng.
Công tác tuyên truyền yếu và thiếu
Trước thực trạng đó, nhiều ý kiến cho rằng, có luật rồi…nhưng chưa đủ. Do bạo lực gia đình diễn ra trong phạm vi hẹp (gia đình) nên nhiều người cứ giữ quan niệm cũ: không muốn “vạch áo cho người xem lưng” dẫn đến khi sự việc được mọi người biết thì hậu quả đã quá nghiêm trọng. Do vậy, để phòng, chống bạo lực gia đình hiệu quả thì công tác tuyên truyền vô cùng quan trọng.
Thực tế, công tác tuyên truyền đã được triển khai, nhưng theo đánh giá vẫn còn yếu và thiếu, mới chỉ phần nào đáp ứng chiều rộng mà chưa thực sự đi vào chiều sâu. Có thể minh chứng cho điều này qua kết quả khảo sát đầu vào của Dự án năng lực tài chính nhằm giảm thiểu bạo lực gia đình do Trung tâm nghiên cứu của Trường Cán bộ phụ nữ TƯ tiến hành ở 4 địa phương là Bắc Ninh, Đà Nẵng, Kon Tum, Cần Thơ từ giữa tháng 2.2010 đến nay.
Khoảng 1/4 số người được hỏi chưa hề biết đến một hoạt động phòng chống bạo lực gia đình nào. Trên thực tế, mới chỉ có hơn một nửa số phụ nữ tham gia khảo sát được tiếp cận với thông tin về bạo lực gia đình qua hình thức truyền thông trực tiếp. Hoạt động truyền thông trên diện rộng như nói chuyện trong các cuộc họp dân cư và trên loa đài chưa thực sự hiệu quả.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, trong các đơn vị thực hiện công tác tuyên truyền về bạo lực gia đình thì Hội LHPN là đơn vị thực hiện các hoạt động truyền thông trực tiếp được nhiều người biết đến nhất (88%), còn sự tham gia của Tổ dân phố là rất thấp và đặc biệt thấp ở nông thôn. Công an, Hội cựu chiến binh, Tổ hòa giải... thực hiện ở mức độ không đáng kể.
Nhận thức chưa đầy đủ
Mặc dù Luật Phòng chống bạo lực gia đình có hiệu lực thi hành hơn 2 năm qua nhưng khi được hỏi, gần 20% số người tham gia khảo sát nói là không biết về luật này và hơn 3% cho là chưa có. Một vấn đề mà đa số phụ nữ tham gia khảo sát chưa nhận thức đầy đủ là vấn đề nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình. Đa số chỉ quan tâm đến quyền của nạn nhân khi xảy ra bạo lực hơn là nghĩa vụ của họ. Trên 1/3 số phụ nữ được hỏi chưa thấy được nghĩa vụ cung cấp thông tin cho các cơ quan chức năng khi có bạo lực gia đình xảy ra.
Quan niệm, nhìn nhận của nhiều phụ nữ về hành vi bạo lực gia đình vẫn còn nhiều điểm chưa đúng; ngay cả những người tự cho là hiểu rõ về bạo lực gia đình thì khi tiến hành khảo sát sâu, hiểu biết của nhóm này vẫn còn sơ sài và mơ hồ. Vẫn còn không ít người quan niệm chỉ khi dẫn đến hậu quả nặng nề về mặt thể chất thì mới xem đó là bạo lực. Một số hành vi như gây tổn hại tinh thần, cô lập, xua đuổi, cưỡng ép tình dục... nhiều chị em vẫn chưa nhận biết rõ, không nhận diện được với các biểu hiện như vậy thì có được xem là hành vi bạo lực hay không.
Các cấp, ngành... chưa thực sự vào cuộc
Bạo lực gia đình không còn là vấn đề riêng của mỗi gia đình mà đã trở thành vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Trên thực tế, tuy không có những vụ việc nghiêm trọng nhưng bạo lực gia đình thường xuyên xảy ra tại nhiều địa phương. Điều đáng nói là, tại nhiều nơi, khi bạo lực xảy ra thì họ coi đó là điều đương nhiên. Đây là nhận thức sai lầm không chỉ của từng cá nhân và mà ngay cả chính quyền và xã hội.
Theo đánh giá của nhiều luật sư, một nguyên nhân dẫn đến tình trạng BLGĐ vẫn gia tăng, trong khi đã có chế tài xử lý là do các cơ quan thực thi pháp luật và chính quyền địa phương, là những cơ quan chủ chốt thực thi Luật, vẫn thờ ơ. LS Nguyễn Văn Tú, Văn phòng LS Khánh Hưng (Đoàn Luật sư TP Hà Nội) được mời bảo vệ quyền lợi cho nạn nhân Lại Thị Mai (Phủ Lý, Hà Nam) bị chết vì hành vi BLGĐ do chồng gây ra. Trong quá trình tiếp cận hồ sơ vụ án, các cơ quan thực thi pháp luật tại địa phương đều không hề biết đến Luật Phòng chống BLGĐ, LS Tú phải photo cuốn Luật Phòng chống BLGĐ để “tặng” các cán bộ.
Bên cạnh đó, hoạt động của một số mô hình hỗ trợ cho các nạn nhân bị BLGĐ như nhà tạm lánh; trung tâm tư vấn, hỗ trợ; cơ sở chăm sóc sức khỏe phụ nữ (nơi tiếp nhận điều trị nạn nhân bị BLGĐ)... hiện cũng hoạt động không hiệu quả vì thiếu kinh phí. Các mô hình này phụ thuộc quá nhiều vào viện trợ từ các dự án của nước ngoài nên khi hết dự án là ngừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng...