Người đàn bà trong xã hội “An Nam”
Phong trào đòi nam nữ bình quyền trên thế giới xuất phát từ Pháp với Cách mạng 1789. Từ đó, các cuộc đấu tranh nổ ra khi nơi này, lúc nơi khác. Phong trào đã đạt được những kết quả toàn vẹn lần đầu tiên ở các nước Bắc Âu vào cuối thế kỷ 20. Thí dụ như ở Đan Mạch, nam nữ hoàn toàn bình đẳng, không những do pháp luật và những biện pháp cụ thể của nhà nước, mà cả ở trong phong tục tập quán và tâm lý xã hội.
Nhưng lại nảy sinh ra một vấn đề mới: Phải chăng mục tiêu nam nữ bình quyền là biến nữ thành nam, đàn bà phải chăng chỉ mong được giống đàn ông hoàn toàn? Nếu quả như vậy thì ý nghĩa cuộc sống và hương vị cuộc đời thật tẻ nhạt! Vậy phụ nữ phải có một bản sắc khác nam giới, bản sắc đó là gì? (ý kiến của chị H.V. Holst, người Đan Mạch).
Có điều lạ là ý kiến trên, rất hiện đại, phát biểu vào đầu thiên niên kỷ thứ 3 lại có phần trùng hợp với ý kiến của một trí thức “An Nam”, ông Đặng Phúc Thông, cách đây tám chục năm, khi Việt Nam thời Pháp thuộc bị gọi là An Nam: “Tại sao phụ nữ hiện đại lại muốn bước từ trên đài cao xuống, nơi mà các dân tộc dựng lên để tôn sùng họ, sao họ bước xuống để tự ném mình trong cuộc bon chen? Ảnh hưởng của phụ nữ sẽ kém dần khi cuộc sống của họ ra ngoài xã hội. Đối với chúng ta, người đàn bà sẽ còn tượng trưng được cái gì khi đã mất bản chất thực của mình? Chúng ta muốn tìm thấy ở phụ nữ không phải là bóng dáng mờ nhạt của đàn ông chúng ta, mà phải là một sinh vật có một bản chất khác, có một cảm xúc cao hơn, chiếu sáng cho cuộc đời chúng ta, tư duy chúng ta và hành động của chúng ta.”
Nữ nhà văn Pháp Simone de Beauvoir đã từng đưa ra những luận điểm nổi tiếng về bản sắc phụ nữ trong tác phẩm Giới thứ hai. Hai ý kiến trên tuy rất khác nhau, nhưng cũng cùng theo hướng đó, cùng đặt vấn đề bản sắc phụ nữ đích thực là gì?
Đặng Phúc Thông (1906-1951) đã viết công trình nghiên cứu tiếng Pháp Người đàn bà trong xã hội An
Đặng Phúc Thông viết công trình nghiên cứu trên, mười năm trước Cách mạng tháng Tám. Vào thời điểm đó, việc hiện đại hoá tức Tây phương hoá Việt Nam, về phương diện văn minh vật chất đã tạo ra một tầng lớp tư sản và tiểu tư sản Tây học, ảnh hưởng rất lớn đến sự thay đổi phong tục tập quán, tư duy và tâm lý xã hội, đặc biệt là ở thành thị. Sự xung đột giữa nền văn hoá phương Tây, cá nhân chủ nghĩa và nặng về vật chất với văn hoá truyền thống Việt Nam, chịu ảnh hưởng của Khổng học, nặng về ý thức cộng đồng và đạo đức đã đặt ra nhiều vấn đề xã hội. Về vấn đề phụ nữ, Đặng Phúc Thông đề cao những đức tính truyền thống của người phụ nữ Việt
Sau đây xin trích dịch đoạn kết công trình nghiên cứu ấy, một tài liệu hầu như chưa được công bố: “Thời nào cũng vậy, người phụ nữ An
Người phụ nữ An Nam về bản chất chẳng cao siêu gì hơn những chị em ở phương Tây hay phương Đông của mình; các chị thuộc mẫu người mà ta có thể bắt gặp ở bất cứ nơi đâu có trật tự đạo đức, mỹ học và tôn giáo mạnh mẽ có thể giúp các chị tìm được câu trả lời thoả đáng cho nỗi lo và quan niệm về cái vô hạn của mình. Thực chẳng ích gì việc đem so sánh Andromaque với Khương Thị, Brunehilde với Bùi Thị Xuân... Việc sản sinh ra các nữ anh hùng hào kiệt không phải là đặc quyền của riêng một chủng tộc nào. Trong mọi thời đại, các chị luôn là những minh họa bi thảm cho sự bất diệt của Tình yêu. Chừng nào người phụ nữ An Nam còn chưa bị cám dỗ bởi chủ nghĩa vật chất cá nhân trong vỏ bọc đẹp đẽ, chừng ấy các chị vẫn giữ được những truyền thống đúng với bản chất phụ nữ của mình...”
Sự gặp gỡ tư tưởng giữa Đặng Phúc Thông với chị H.V.Holst cách nhau gần một thế kỷ ở hai phương trời khiến ta thêm trân trọng lớp trí thức Tây học đầu tiên của đất nước.