Video

Nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên nữ và phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh

22/09/2025
Sáng 22/9, tham luận tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I, Ủy viên TƯ Đảng, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể TƯ, Phó Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Thị Tuyến nêu ra 6 giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên nữ và 6 giải pháp nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh.
Ủy viên TƯ Đảng, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Phó Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Thị Tuyến trình bày tham luận tại Đại hội

Trình bày tham luận tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, Ủy viên TƯ Đảng, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể TƯ, Phó Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Thị Tuyến cho biết trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và đã ban hành nhiều văn bản nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, đảng viên nữ như: Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Chỉ thị số 21-CT/TW, ngày 20/11/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Luật Bình đẳng giới; Quyết định số 2282/QĐ-TTg, ngày 31/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình "Tăng cường sự tham gia bình đẳng của phụ nữ trong các vị trí lãnh đạo và quản lý ở các cấp hoạch định chính sách giai đoạn 2021 - 2030"; Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030...

Các văn bản đã xác định rõ mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể về cán bộ nữ cũng như chủ trương xây dựng, phát triển đội ngũ đảng viên nữ. Cụ thể:

- Về nữ tham gia cấp ủy: Tỷ lệ Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng (gồm cả dự khuyết) là cán bộ nữ khoảng 10 - 12%; phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ; phấn đấu cơ cấu, tỷ lệ quy hoạch cấp ủy và các chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp theo hướng cán bộ nữ từ 25% trở lên;

- Về nữ tham gia Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp: Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đạt trên 35%; bảo đảm có ít nhất 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp là phụ nữ.

- Về nữ lãnh đạo, quản lý các cấp: Đến năm 2025 đạt 60% và đến năm 2030 đạt 75%, các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Tỷ lệ cán bộ nữ trong diện quy hoạch các chức danh quản lý, lãnh đạo các cấp đạt ít nhất 40% vào năm 2025 và đạt 50% vào năm 2030. Tỷ lệ cán bộ nữ trong diện quy hoạch các chức danh quản lý, lãnh đạo các cấp được đào tạo, tập huấn, nâng cao năng lực đạt 75% vào năm 2025 và đạt 90% vào năm 2030. 

- Về xây dựng, phát triển đội ngũ đảng viên nữ: Bồi dưỡng phát triển đảng viên nữ cân đối giữa các khu vực. Chú trọng việc bố trí, phân công công tác để đảng viên nữ có điều kiện phấn đấu, rèn luyện và trưởng thành.

Nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên nữ và phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh- Ảnh 1.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn gặp mặt nữ đại biểu Quốc hội và nữ Vụ trưởng thuộc các cơ quan của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội nhân kỷ niệm 115 năm Ngày Quốc tế phụ nữ và 1985 năm Ngày khởi nghĩa Hai Bà Trưng, vào sáng 6/3/2025, tại Nhà Quốc hội. Ảnh: Báo Nhân Dân

NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN NỮ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ HỖ TRỢ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH, XÃ HỘI VĂN MINH

Nói về thực trạng đội ngũ cán bộ, đảng viên nữ trong hệ thống chính trị, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Thị Tuyến cho biết:

- Về nữ tham gia cấp ủy: Tỷ lệ nữ cấp ủy các nhiệm kỳ qua có xu hướng tăng dần. Tính đến tháng 5/2025, nữ Ủy viên Bộ Chính trị là 6,25%, nữ Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII (chính thức và dự khuyết) đạt 10,65%. Sau sắp xếp các tỉnh, thành phố, có 3/34 nữ bí thư tỉnh/thành ủy, chiếm 8,82% (tại thời điểm cuối tháng 6/2025 có 7/63 nữ bí thư, chiếm 11,11%); có 19 nữ phó bí thư (trước sắp xếp là 16). 

Ở địa phương, theo số liệu sơ kết giữa nhiệm kỳ, tỷ lệ nữ cấp ủy cấp tỉnh là 15,87%, cấp huyện là 19,22%, cấp cơ sở là 24,52%; cán bộ nữ tham gia ban thường vụ cấp tỉnh đạt 12,50%, cấp huyện đạt 14,26%, cấp cơ sở đạt 15,73% (tại thời điểm đầu nhiệm kỳ, nữ cấp ủy cấp tỉnh đạt 15,7% - tăng 2,4% so với nhiệm kỳ trước, cấp huyện đạt 17% - tăng 2,7%, cấp cơ sở đạt 20,8% - tăng 1,1%; nữ ủy viên thường vụ 3 cấp lần lượt là 11,3%, 15,3% và 14,6%).

- Về nữ tham gia Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp: Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XV đạt 30,26% - cao nhất từ Quốc hội khóa VI trở lại đây và là lần thứ hai đạt trên 30%. Theo bảng xếp hạng của Liên minh Nghị viện thế giới (IPU), Việt Nam đứng thứ 53/193 quốc gia, vùng lãnh thổ về tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội/Nghị viện (tại thời điểm tháng 6/2021); đến tháng 7/2025, xếp hạng 63/193 quốc gia, vùng lãnh thổ, cao hơn mức trung bình khu vực châu Á 8,16%. Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 đều cao hơn nhiệm kỳ trước: cấp tỉnh đạt 29% (cao hơn 2,44%), cấp huyện đạt 29,08% (cao hơn 1,58%), cấp xã đạt 28,98% (cao hơn 2,39%)

- Về nữ tham gia các vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp: Đối với cấp Trung ương, tại thời điểm ngày 31/12/2024, tỷ lệ các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có lãnh đạo chủ chốt là nữ chiếm 46,67% (trong đó, nếu chỉ tính các bộ, cơ quan ngang bộ thì tỷ lệ này là 59%); có 4 nữ bộ trưởng và tương đương, chiếm 13,34%; 1/8 cơ quan thuộc Chính phủ có nữ là lãnh đạo chủ chốt, chiếm 12,5%. 

Ở địa phương, tính tại thời điểm tháng 2/2025 (thời điểm trước khi sắp xếp chính quyền địa phương 2 cấp và sáp nhập tỉnh, thành phố), tỷ lệ chính quyền địa phương cấp tỉnh có lãnh đạo chủ chốt là nữ chiếm 76%; ở cấp huyện tỷ lệ này là 44,56% và ở cấp xã là 46,58%2. Đến nay, sau sắp xếp, có 6/34 Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh là nữ, chiếm 17,64% (trước sắp xếp có 17 nữ đồng chí, chiếm 26,98%); có 26 nữ Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân (trước sắp xếp là 32 đồng chí); không có Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh là nữ (trước sắp xếp có 1 nữ đồng chí, chiếm 1,58%); có 19 nữ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh (trước sắp xếp có 23 nữ đồng chí).

Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam đứng thứ 74 trong 148 quốc gia trên thế giới tham gia xếp hạng về khoảng cách giới (năm 2025).

- Về đội ngũ nữ đảng viên: Tỷ lệ đảng viên nữ về cơ bản đều tăng qua các nhiệm kỳ. Theo số liệu của Ban Tổ chức Trung ương, tính đến ngày 31/12/2022, cả nước có hơn 5,3 triệu đảng viên; trong đó, đảng viên nữ chiếm 38,1% tổng số đảng viên toàn Đảng; tỷ lệ đảng viên nữ tăng gấp 1,8 lần so với tỷ lệ tăng đảng viên của toàn Đảng; trình độ học vấn, chuyên môn, lý luận chính trị ngày càng cao hơn.

Không chỉ là lực lượng quan trọng trong hệ thống chính trị, phụ nữ Việt Nam còn giữ vị trí trung tâm trong việc xây dựng gia đình - hạt nhân của xã hội, nơi hình thành các giá trị đạo đức, văn hóa, góp phần trực tiếp vào sự phát triển bền vững và văn minh của đất nước.

Khẳng định vai trò của Hội LHPN Việt Nam trong hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Thị Tuyến nhấn mạnh, trong kỷ nguyên hội nhập và phát triển nhanh, bền vững, gia đình Việt Nam đứng trước cả thời cơ và thách thức đan xen, tác động trực tiếp đến hạnh phúc và sự bền vững của mỗi tổ ấm. Với khoảng 50,2% dân số là nữ giới, phụ nữ không chỉ là đối tượng chịu tác động mạnh mẽ nhất, mà còn là nhân tố trung tâm tạo nên sự thay đổi tích cực - "giữ lửa" yêu thương, gìn giữ các giá trị tốt đẹp và xây dựng môi trường sống tiến bộ, nhân văn.

Thấm nhuần sâu sắc quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công tác gia đình, đặc biệt là Chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 24/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng gia đình trong tình hình mới, trong thời gian qua, công tác vận động, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh đã được các cấp Hội LHPN Việt Nam triển khai đồng bộ, bài bản và đạt nhiều kết quả nổi bật trên bốn nhóm nội dung lớn:

(1) Chủ động tham mưu, đề xuất chính sách và chủ trì thực hiện các chương trình, đề án mang tính đặc thù giới và gia đình, tạo hành lang pháp lý, cơ chế nguồn lực chăm lo thiết thực cho phụ nữ, trẻ em. Tiêu biểu như: Dự án 8 "Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết của phụ nữ và trẻ em" trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; thực hiện Cuộc vận động "xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch", "vun đắp hệ giá trị gia đình Việt Nam" trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; 5/7 dự án hỗ trợ phụ nữ trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; Đề án 938 "Tuyên truyền, giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ giai đoạn 2017 - 2027" và Đề án 939 "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 - 2025". Đặc biệt, trong nhiệm kỳ đã đề xuất thành công Đề án 01 "Hỗ trợ hợp tác xã do phụ nữ tham gia quản lý, tạo việc làm cho lao động nữ đến năm 2030". 

Nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên nữ và phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh- Ảnh 2.

Nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên nữ và phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh- Ảnh 3.

Các hoạt động khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh đã góp phần nâng cao quyền năng kinh tế cho các hội viên, phụ nữ, hướng tới nhiều hơn đối tượng phụ nữ yếu thế

(2) Đẩy mạnh hỗ trợ phụ nữ nâng cao quyền năng kinh tế, thoát nghèo bền vững, tiến tới tự chủ - nền tảng xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, bền vững thông qua các hoạt động khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh, đào tạo nghề, tạo việc làm, hỗ trợ mô hình sinh kế, hỗ trợ thành lập và vận hành hợp tác xã, tổ hợp tác do phụ nữ quản lý; tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng chính sách thông qua hoạt động nhận ủy thác cho vay từ ngân hàng chính sách xã hội và các ngân hàng thương mại, vận hành các chương trình, dự án tài chính vi mô... 

Kết quả nổi bật: trên 1,2 triệu phụ nữ thoát nghèo; 53.626 phụ nữ khởi sự/khởi nghiệp kinh doanh; 666 hợp tác xã mới thành lập; 12,2 triệu lượt phụ nữ được tuyên truyền nâng cao nhận thức về việc làm, khởi nghiệp; 490.000 lao động nữ có việc làm sau đào tạo; dư nợ 146 nghìn tỷ đồng cho 2,5 triệu hộ phụ nữ vay vốn thông qua ủy thác với Ngân hàng Chính sách xã hội; dư nợ phối hợp với Agribank 30 nghìn tỷ đồng cho 217 nghìn thành viên vay; Tổ chức tài chính vi mô Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Tình Thương (TYM) thuộc Trung ương Hội LHPN Việt Nam hỗ trợ trên 170 nghìn phụ nữ vay hơn 2.000 tỷ đồng. Việc hỗ trợ phát triển kinh tế không chỉ giúp phụ nữ có nguồn thu nhập ổn định, mà còn giúp phụ nữ nâng cao vai trò, vị thế của chị em trong gia đình. Khi phụ nữ có điều kiện tham gia sản xuất kinh doanh và tự chủ về tài chính, chị em sẽ có tiếng nói trong các quyết định của gia đình, giảm thiểu phụ thuộc và phòng ngừa bạo lực gia đình hiệu quả hơn.

(3) Chăm lo, giáo dục trẻ em thông qua vai trò người mẹ và gia đình, lan tỏa tinh thần nhân văn, tiêu biểu là Chương trình "Mẹ đỡ đầu" sau gần 4 năm triển khai, đã vận động 243,65 tỷ đồng, hỗ trợ 37.765 trẻ em mồ côi có hoàn cảnh khó khăn, trong đó có hơn 3.000 trẻ mồ côi do Covid-19 và kết nối 11.064 mẹ đỡ đầu/người chăm sóc thay thế được tập huấn kỹ năng chăm sóc, nuôi dạy trẻ; công tác giáo dục làm cha mẹ được chú trọng với trên 30 triệu lượt hội viên, cha mẹ có con dưới 16 tuổi được trang bị kiến thức, kỹ năng; và hơn 5.000 mô hình giáo dục cha mẹ được thành lập và hoạt động hiệu quả; 2.026 câu lạc bộ "Thủ lĩnh của sự thay đổi" hỗ trợ 21.535 trẻ vị thành niên nâng cao hiểu biết pháp luật, kỹ năng sống, bảo vệ bản thân... 

Nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên nữ và phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh- Ảnh 4.

Chị Lâm Thị Phúc, Chủ nhiệm CLB “Mẹ đỡ đầu” Tổ dân phố số 17 (phường Bỉm Sơn, Thanh Hóa) tận tình kèm cặp, giúp con đỡ đầu Nguyễn Thị Mai (SN 2013) ôn lại bài cũ để sẵn sàng bước vào năm học mới.

Các hoạt động đã tạo môi trường yêu thương, an toàn, giúp trẻ phát triển toàn diện, qua đó lan tỏa tinh thần trách nhiệm của gia đình, đặc biệt là người mẹ trong nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ trẻ em thời kỳ mới. 

(4) Giáo dục kỹ năng xây dựng gia đình hạnh phúc, thúc đẩy vai trò nam giới và cộng đồng: các cấp hội đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục kiến thức, kỹ năng xây dựng gia đình thời 4.0 gắn với bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực, thay đổi định kiến, huy động trách nhiệm của nam giới và cộng đồng trong vun đắp hạnh phúc gia đình. 

Kết quả nổi bật: 100% cơ sở hội tuyên truyền nâng cao nhận thức về giáo dục đời sống gia đình; thành lập hơn 10.000 tổ truyền thông cộng đồng tuyên truyền cho 370.000 lượt người về phòng, chống bạo lực, tảo hôn; 55.373 thanh niên được giáo dục trước hôn nhân; hệ thống các mô hình hỗ trợ được củng cố và nhân rộng như: 18.000 câu lạc bộ gia đình hạnh phúc, 2.312 địa chỉ tin cậy tại cộng đồng địa bàn dân tộc thiểu số và miền núi khó khăn, hỗ trợ, tư vấn khoảng 110.100 phụ nữ, trẻ em. 

Đặc biệt, Trung ương Hội phát triển mô hình Ngôi nhà Bình Yên thành Trung tâm trợ giúp xã hội - Ngôi nhà Bình Yên là bước tiến quan trọng theo quy định pháp luật về cơ sở dịch vụ hỗ trợ toàn diện miễn phí cho phụ nữ và trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình, xâm hại tình dục, mua bán người, giúp phục hồi sức khỏe thể chất và tinh thần, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, tạo điều kiện để trên 2.000 phụ nữ, trẻ em bị bạo lực, bị mua bán người tái hòa nhập an toàn, bền vững. Nhìn chung, các hoạt động đã góp phần lan tỏa ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân, đặc biệt là nam giới trong xây dựng gia đình văn minh, hạnh phúc, an toàn.

Nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên nữ và phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh- Ảnh 5.

Nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên nữ và phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh- Ảnh 6.

Ngày 8/12/2023, Trung tâm Phụ nữ và Phát triển thuộc Hội LHPN Việt Nam với sự hỗ trợ kỹ thuật của Cơ quan Liên Hợp quốc về Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ tại Việt Nam (UN Women) đã chính thức ra mắt Trung tâm trợ giúp xã hội - Ngôi nhà bình yên, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ toàn diện cho phụ nữ và trẻ em bị bạo lực

NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CÔNG TÁC CÁN BỘ NỮ VÀ THÁCH THỨC ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 

Theo Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam, mặc dù công tác cán bộ nữ đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng kết quả vẫn còn những hạn chế:

Thứ nhất, chỉ tiêu "có cán bộ nữ trong ban thường vụ" ở đơn vị cơ sở đạt thấp (đầu nhiệm kỳ chỉ đạt 51,61%). Tỷ lệ nữ cấp ủy ở một số địa phương chưa đạt chỉ tiêu đề ra (tại Chỉ thị số 45-CT/TW yêu cầu đạt 15%, Nghị quyết số 11-NQ/TW là 20 - 25%), có nơi không có cán bộ nữ tham gia ban thường vụ, ban chấp hành, đặc biệt là ở cấp cơ sở.

Thứ hai, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân đạt và gần đạt 30% nhưng so với chỉ tiêu đề ra tại Nghị quyết số 11- NQ/TW là trên 35% thì còn khoảng cách khó đạt (tính đến thời điểm trước ngày 01/7/2025, còn 28/63 tỉnh, thành phố dưới 30%, trong đó 15 tỉnh, thành phố dưới 20% và 2 tỉnh, thành phố không có nữ đại biểu Quốc hội; 25 tỉnh, thành phố có tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân ở cả 3 cấp đều dưới 30%). 

Thứ ba, mục tiêu về số lượng lãnh đạo chủ chốt là nữ trong các cơ quan quản lý nhà nước ở cấp Trung ương, huyện, xã (tính theo chỉ tiêu chính quyền 4 cấp) chưa đạt. Tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các vị trí cấp chiến lược, các vị trí lãnh đạo chủ chốt còn thấp, chủ yếu đảm nhiệm vị trí cấp phó. Sau khi sắp xếp tổ chức bộ máy hiện nay có 4/14 bộ không có nữ thứ trưởng; chỉ có 1/8 cơ quan của Quốc hội có chủ nhiệm là nữ (chiếm 12,5%), 2 ủy ban không có nữ Phó Chủ nhiệm.

Thứ tư, một số địa phương chưa bảo đảm quy định về tỷ lệ nữ trong quy hoạch và tỷ lệ nữ trong quy hoạch được đào tạo, bồi dưỡng.

Thứ năm, tỷ lệ đảng viên nữ ở nhiều tỉnh còn thấp, có tỉnh mới chỉ đạt trên 20%5; tỷ lệ phát triển đảng viên trong nhóm phụ nữ theo tôn giáo, lãnh đạo doanh nghiệp, nữ lao động trong doanh nghiệp, phụ nữ dân tộc thiểu số, nữ làm nông, lâm, ngư nghiệp thấp; trình độ chuyên môn và lý luận chính trị của đảng viên nữ nói chung đều thấp hơn nam giới, ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển sự nghiệp của đảng viên nữ trong tương lai.

Nguyên nhân của những hạn chế được chỉ ra do một số lý do sau:

Thứ nhất, việc cụ thể hóa các chủ trương, đường lối, chính sách, luật pháp của cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu ở nhiều nơi còn chậm và chưa quyết tâm cao dẫn đến chậm chuyển biến trong nhận thức; một số nội dung chưa có cơ chế, hướng dẫn cụ thể dẫn đến khó khăn trong triển khai thực hiện ở các địa phương; thiếu các biện pháp xử lý mạnh mẽ, đồng bộ và hiệu quả để hiện thực hóa được các chỉ tiêu về cán bộ nữ. Việc kiểm tra, đôn đốc thực hiện nghị quyết, chỉ thị về công tác phụ nữ, công tác cán bộ nữ chưa thường xuyên, chưa kịp thời.

Thứ hai, việc tạo nguồn cán bộ nữ và phát triển đảng viên nữ còn thiếu những giải pháp mang tính chiến lược; việc sắp xếp, luân chuyển, biệt phái tạo cơ hội cho cán bộ, đảng viên nữ được rèn luyện qua thực tiễn chưa nhiều. Bên cạnh đó, một thời gian dài, chưa có quy định cụ thể về tỷ lệ nữ trong quy hoạch dẫn đến thiếu nguồn cán bộ nữ đủ điều kiện, tiêu chuẩn khi có các vị trí để bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử. Sự khác biệt về tuổi nghỉ hưu cũng là một trong những nguyên nhân mang tính gốc rễ dẫn đến cán bộ, đảng viên nữ bị mất cơ hội được quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, làm hạn chế cơ hội phát triển của phụ nữ.

Thứ ba, định kiến xã hội về vai trò của phụ nữ và nam giới vẫn còn tồn tại ở một số địa phương, đơn vị khiến phụ nữ ít được ủng hộ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, nhất là các vị trí có tầm ảnh hưởng và chưa được quan tâm phát triển đảng. Bên cạnh đó, bản thân một bộ phận phụ nữ vẫn còn tâm lý an phận, muốn "an toàn", "ổn định", chưa chủ động vươn lên, ngại phấn đấu, dễ tự bằng lòng với những vị trí ít thách thức, từ đó bỏ lỡ cơ hội thăng tiến, phát triển bản thân.

Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Thị Tuyến nhấn mạnh, có thể thấy, những thách thức trong công tác cán bộ nữ và những vấn đề đặt ra đối với gia đình đều có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, đòi hỏi các giải pháp đồng bộ từ cả góc độ chính trị và xã hội.

Nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên nữ và phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh- Ảnh 7.

Tổ truyền thông cộng đồng tại tỉnh Thanh Hoá tích cực tuyên truyền về các nội dung như phòng, chống tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống; phòng, chống bạo lực gia đình; tuyên truyền thay đổi nếp nghĩ, cách làm, góp phần xóa bỏ định kiến và khuôn mẫu giới trong gia đình, cộng đồng; những tập tục văn hóa có hại và một số vấn đề xã hội cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em.

Từ những nguyên nhân trên, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam chỉ ra những thách thức đặt ra đối với phụ nữ trong gia đình và xã hội:

Thứ nhất, các giá trị đạo đức, truyền thống như lòng hiếu thuận, sự thủy chung, tôn trọng, gắn kết giữa các thế hệ có biểu hiện bị xem nhẹ; lối sống cá nhân được đề cao khiến các mối quan hệ trong gia đình trở nên lỏng lẻo, thiếu gắn bó. Quy mô, cấu trúc gia đình thay đổi theo xu hướng hạt nhân hóa, đặt ra khó khăn trong việc chăm sóc người cao tuổi. Tỷ lệ ly hôn trong các gia đình trẻ tăng, đặc biệt tình trạng dễ dãi trong hôn nhân, lối sống thụ hưởng, buông thả để lại nhiều hệ lụy cho sức khỏe, giống nòi và sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ. Cùng với đó là các thách thức mới như mất cân bằng giới tính khi sinh, già hóa dân số, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, tác động của chuyển đổi số, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập toàn cầu.

Thứ hai, các vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ, trẻ em tiếp tục diễn biến phức tạp, nhất là bạo lực gia đình, xâm hại trẻ em gây bức xúc dư luận; bất bình đẳng giới vẫn tồn tại, phụ nữ chịu áp lực "kép" giữa công việc và gia đình, chi phí nuôi dạy con quá cao tại một số thành phố dẫn đến tỷ lệ phụ nữ kết hôn muộn, sinh ít con hoặc không sinh con tăng nhanh, dễ bị tổn thương về cơ hội phát triển. Áp lực kinh tế, di cư lao động, tư tưởng trọng nam khinh nữ, ảnh hưởng tiêu cực từ mạng xã hội... làm gia tăng căng thẳng, bạo lực, đứt gãy kết nối giữa các thế hệ. Việc giáo dục, chăm sóc con cái trong nhiều gia đình còn hạn chế (thiếu thời gian, nội dung, phương pháp phù hợp...) dẫn đến gia tăng các hành vi lệch chuẩn như nghiện game, mạng xã hội, vi phạm pháp luật, nạo phá thai tuổi vị thành niên... ảnh hưởng lâu dài tới hạnh phúc gia đình, chất lượng dân số và sự phát triển bền vững của xã hội.

Kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc mở ra cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức, yêu cầu đối với phụ nữ nói chung và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng, nhất là khi phụ nữ vừa đảm nhiệm vai trò lãnh đạo, quản lý, vừa là trụ cột trong vun đắp gia đình hạnh phúc - nền tảng để xã hội phát triển bền vững.

Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Thị Tuyến đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên nữ và phát huy vai trò phụ nữ trong gia đình, xã hội như sau:

Một là, tăng cường giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng năng lực toàn diện cho cán bộ, đảng viên nữ. Cần phát triển các chương trình đào tạo chuyên sâu, bài bản, có chiều sâu chiến lược nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, kỹ năng điều hành, tư duy đổi mới và quản trị hiện đại cho cán bộ, đảng viên nữ. Đặc biệt, cần ưu tiên cập nhật kiến thức về chuyển đổi số, kinh tế số, trí tuệ nhân tạo, ứng dụng công nghệ và quản trị rủi ro, giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên nữ bắt kịp xu thế phát triển mới. Các hình thức đào tạo cần linh hoạt, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, đáp ứng yêu cầu vừa học, vừa làm, vừa thực hiện được vai trò, trách nhiệm trong gia đình của cán bộ nữ.

Hai là, thúc đẩy công tác quy hoạch và sử dụng hiệu quả cán bộ nữ có triển vọng. Thực hiện công tác quy hoạch cán bộ nữ chủ động, bài bản, có chiến lược dài hạn; bảo đảm tỷ lệ nữ trong quy hoạch theo quy định của Bộ Chính trị, tương xứng với tiềm năng của phụ nữ và phù hợp với nhu cầu phát triển. Tạo cơ hội để cán bộ, đảng viên nữ được tham gia đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện trong môi trường thực tiễn, trải nghiệm vị trí công tác đa dạng để tích lũy kinh nghiệm và rèn luyện bản lĩnh, sẵn sàng được bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý.

Ba là, xây dựng môi trường làm việc công bằng, hỗ trợ sự phát triển của cán bộ, đảng viên nữ. Xây dựng văn hóa tổ chức đề cao sự bình đẳng, tôn trọng và tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển. Môi trường làm việc thân thiện, linh hoạt về thời gian, có chính sách hỗ trợ cho cán bộ nữ có con nhỏ, chăm sóc gia đình là yếu tố quan trọng giúp họ phát huy tối đa năng lực và nhận được sự ủng hộ của gia đình, cộng đồng; đồng thời, cần phòng ngừa và xử lý nghiêm các biểu hiện phân biệt giới, giảm dần những định kiến vô thức khiến phụ nữ khó tiếp cận cơ hội thăng tiến.

Nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên nữ và phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh- Ảnh 8.

Tích cự nâng cao năng lực cho cán bộ nữ. Ảnh: Báo Lai Châu

Bốn là, tăng cường sự hỗ trợ của các thiết chế, tổ chức hoạt động vì bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ. Đẩy mạnh các chương trình nâng cao năng lực, nhất là trong các lĩnh vực then chốt, lĩnh vực mới như: chuyển đổi số, kinh tế xanh, đổi mới sáng tạo..., kỹ năng mềm, quản trị thời gian, cân bằng giữa công việc và cuộc sống cho cán bộ nữ. Đồng thời, phát triển các mạng lưới cán bộ nữ, lãnh đạo nữ, các câu lạc bộ, diễn đàn chia sẻ kinh nghiệm, cố vấn nghề nghiệp để tạo nên cộng đồng hỗ trợ, truyền cảm hứng trong cán bộ nữ và thế hệ phụ nữ trẻ.

Năm là, tăng cường truyền thông đổi mới nhận thức xã hội thúc đẩy bình đẳng giới. Cần tiếp tục đổi mới công tác truyền thông nhằm xóa bỏ định kiến giới, khuyến khích xã hội nhìn nhận đúng đắn, tích cực về vai trò, năng lực và những đóng góp của phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tăng cường tuyên truyền, giới thiệu những điển hình tiên tiến, mô hình phụ nữ lãnh đạo tiêu biểu để truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ, góp phần hình thành động lực phấn đấu và nâng cao khát vọng vươn lên của đội ngũ cán bộ nữ tiềm năng.

Sáu là, hoàn thiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới gắn với yêu cầu phát triển của kỷ nguyên mới theo hướng thiết thực, hiệu quả, bám sát yêu cầu phát triển nhân lực nữ chất lượng cao trong thời kỳ mới. Cần có các chỉ tiêu, cơ chế kiểm soát việc thực hiện bình đẳng giới trong bổ nhiệm, tuyển dụng, quy hoạch cán bộ, phát triển đảng viên. Đặc biệt, cần tăng cường lồng ghép yếu tố giới trong xây dựng và thực thi các chính sách về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, ứng dụng công nghệ số và cải cách hành chính. Có cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ, đảng viên nữ có tư duy đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá vì lợi ích chung của tập thể, nhất là trong các lĩnh vực mới, lĩnh vực khó, song cũng phải phân định rõ với hành vi liều lĩnh, cảm tính, thiếu thực tế.

Cùng với các giải pháp về công tác cán bộ nữ, việc phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh là nhiệm vụ không thể tách rời, góp phần tạo nền tảng xã hội ổn định và phát triển. Trước những vấn đề đặt ra trong kỷ nguyên mới, Hội LHPN Việt Nam đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh:

Một là, tiếp tục thực hiện hiệu quả các chỉ thị, chiến lược, chương trình về xây dựng gia đình; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục giá trị gia đình thời kỳ mới, nâng cao ý thức trách nhiệm của cả hai giới trong vun đắp hạnh phúc gia đình, xây dựng hệ giá trị gia đình Việt Nam; lồng ghép giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng làm cha mẹ, tiền hôn nhân vào hương ước, quy ước cộng đồng; chú trọng giáo dục thực hành trong gia đình, góp phần hình thành nhân cách, ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ.

Hai là, đẩy mạnh truyền thông, giáo dục dân số và phát triển nhằm thay đổi hành vi, nhận thức; hỗ trợ phụ nữ, thanh niên, các cặp vợ chồng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản; vận động duy trì mức sinh thay thế, giảm mất cân bằng giới tính khi sinh; phát huy vai trò gia đình, cộng đồng thích ứng già hóa dân số, quan tâm chăm sóc người cao tuổi; tích cực tham gia xây dựng và thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về dân số, sức khỏe giai đoạn 2026 - 2035.

Ba là, nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ, hỗ trợ phát triển kinh tế hộ gia đình gắn với thực hiện hiệu quả các chương trình, đề án; vận động phụ nữ phát huy nội lực, giúp nhau thoát nghèo bền vững, khởi nghiệp sáng tạo, ứng dụng công nghệ, làm giàu chính đáng; thúc đẩy kinh tế tập thể, hợp tác theo chuỗi giá trị, sản xuất - tiêu thụ sản phẩm an toàn, xây dựng thương hiệu bền vững; tăng cường đào tạo kỹ năng quản lý kinh tế, kết nối thị trường, hỗ trợ chuyển đổi số, tiếp cận vốn ưu đãi, tín dụng vi mô, nhất là phụ nữ nông thôn, dân tộc thiểu số để tạo sinh kế bền vững.

Nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên nữ và phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh- Ảnh 9.

Ủy viên TƯ Đảng, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Phó Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Thị Tuyến (thứ 4 từ phải sang) trao Bằng khen của UBND TP Hà Nội cho 10 gia đình Thủ đô tiêu biểu trong thực hiện Cuộc vận động "Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch"

Bốn là, tiếp tục hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc gắn với các phong trào, cuộc vận động, đề án trọng tâm của Hội; chuyển Cuộc vận động "Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch" thành "Xây dựng gia đình 5 có, 3 sạch" và triển khai đồng bộ, hiệu quả trên phạm vi toàn quốc, quan tâm địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; chú trọng vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới, giáo dục làm cha mẹ, an toàn cho phụ nữ, trẻ em và người cao tuổi; đẩy mạnh chương trình "Mẹ đỡ đầu", trang bị kiến thức, kỹ năng để phụ nữ xây dựng gia đình an toàn, trách nhiệm, tiến bộ; đổi mới nội dung, phương thức truyền thông, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong tuyên truyền, vận động.

Năm là, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ, trẻ em; kịp thời xử lý các hành vi bạo lực, xâm hại, mua bán; tham gia xây dựng, giám sát, phản biện chính sách, pháp luật về phụ nữ, gia đình, bình đẳng giới; nhân rộng mô hình hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình, giáo dục tiền hôn nhân, chăm sóc người yếu thế gắn với sinh kế bền vững; nâng cao năng lực cán bộ hội đáp ứng yêu cầu truyền thông, vận động trong tình hình mới.

Sáu là, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong công tác xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh; tăng cường phối hợp giữa các cấp, các ngành, Mặt trận, đoàn thể trong tuyên truyền, vận động, giám sát và thực hiện chính sách liên quan đến phụ nữ, gia đình, trẻ em; phát huy vai trò cấp ủy, chính quyền địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo, bố trí nguồn lực và tạo điều kiện thuận lợi để các cấp hội thực hiện hiệu quả nhiệm vụ hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc.

Báo PNVN

MÔ HÌNH HAY