Vai trò của các tổ chức xã hội trong hoạt động trợ giúp pháp lý tại Việt Nam
Công cuộc đổi mới từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang một nền kinh tế thị trường và xã hội pháp quyền tại Việt Nam trong thời gian gần 20 năm qua đã tạo ra nhiều thay đổi tích cực về nhiều mặt của đời sống xã hội. Những chuyển biến khả quan đó là kết quả của một chiến lược quốc gia hợp lý về hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, tăng cường vai trò của các tổ chức xã hội. Bên cạnh những thành công đã đạt được, cùng với quan hệ xã hội phát sinh cần điều chỉnh trong điều kiện mới, số lượng các văn bản pháp luật mới được ban hành ngày càng nhiều đã đặt ra yêu cầu trách nhiệm lớn cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tuyên truyền, giải thích về quyền và trách nhiệm của cả cơ quan nhà nước và công dân. Nếu như ngày càng có nhiều người sử dụng các dịch vụ trợ giúp pháp lý và số người có khả năng thanh toán các chi phí cho việc thuê luật sư tăng lên thì vẫn còn một số lượng rất lớn những người nghèo hoặc hoàn cảnh khó khăn không có khả năng để thuê các dịch vụ này. Trước bối cảnh nói trên, việc triển khai đồng bộ cả hệ thống trợ giúp pháp lý của Nhà nước và hệ thống trợ giúp pháp lý phi Nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn trong xã hội là cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn của đất nước, hướng tới việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý một cách bình đẳng của con người mà đặc biệt là các nhóm yếu thế trong xã hội.
1.Tình hình trợ giúp pháp lý tại Việt
Theo một cuộc khảo sát gần đây về quyền tiếp cận công lý tại Việt Nam, chỉ có 6% số người được phỏng vấn đã tiếp cận tòa án, 4% đã từng có liên hệ với các trung tâm tư vấn pháp luật, và 6% đã sử dụng dịch vụ luật sư. Cuộc điều tra cũng cho thấy, người nghèo và những người sống ở các vùng nông thôn và miền núi có trình độ nhận thức thấp hơn nhiều và giới hạn truy cập thông tin pháp lý và cơ sở pháp lý. Vì vậy, Chính phủ Việt Nam và cộng đồng các nhà tài trợ chia sẻ quan điểm rằng cần nỗ lực hơn nữa để tăng cơ hội của người dân tiếp cận các dịch vụ trợ giúp pháp lý[1].
Hệ thống trợ giúp pháp lý tại Việt Nam được thành lập năm 1997 theo Quyết định số 734 ngày 06 tháng 9 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ. Kể từ đó các dịch vụ trợ giúp pháp lý được cung cấp chủ yếu là do các trung tâm tư vấn pháp lý trực tuyến do phòng tư pháp tỉnh quản lý (các cơ quan cấp tỉnh của Bộ Tư pháp) với ngân sách hàng năm của Nhà nước. Trong một chừng mực nào đó, việc vận hành hệ thống trợ giúp pháp lý nhà nước đã được chứng minh là hữu ích trong việc tạo điều kiện cho các nhóm có hoàn cảnh khó khăn tiếp cận công lý. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhu cầu về trợ giúp pháp lý của các nhóm dễ bị tổn thương đã nhanh chóng tăng lên. Điều này làm cho hệ thống trợ giúp pháp lý nhà nước quá tải và Chính phủ đang đối mặt với khó khăn trong việc trang trải cho ngân sách tăng thêm để vận hành hệ thống trợ giúp pháp lý.
Hơn nữa, các trường hợp chuyển đến cho hệ thống trợ giúp pháp lý nhà nước gần đây ngày càng trở nên phức tạp. Cụ thể là ngày càng tăng số vụ việc với một bên là công dân, một bên là một cơ quan nhà nước. Đối với những vụ việc như vậy, sẽ rất khó khăn cho một cơ quan trợ giúp pháp lý nhà nước để trợ giúp một cách vô tư và công tâm. Đặc biệt là đối với những trường hợp mà trong đó một công dân có đơn khởi kiện đối với chính phòng tư pháp về các vấn đề như đăng ký hộ tịch, công chứng, vv, các trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước sẽ khó có thể xử lý các trường hợp này một cách khách quan và vô tư bởi vì các trung tâm này chịu sự quản lý của phòng tư pháp. Điều này khiến cho công dân lưỡng lự khi sử dụng những dịch vụ được cung cấp bởi hệ thống hỗ trợ pháp lý nhà nước. Thay vào đó, người dân lại hướng đến các trung tâm tư vấn pháp luật của các tổ chức phi chính phủ để được giúp đỡ.
Ngoài ra, khi mà cả hai bên của một vụ việc đủ điều kiện để nhận trợ giúp pháp lý mà họ lại xung đột quyền lợi thì các trung tâm tư vấn pháp lý chỉ có thể trợ giúp một bên, bên còn lại sẽ không được trợ giúp. Những sự vụ như vậy chỉ có thể được xử lý nếu có hai hệ thống trợ giúp pháp lý hoạt động song song. Như vậy thì một bên có thể đi đến một trung tâm tư vấn pháp luật nhà nước trong khi bên kia có thể nhận được trợ giúp pháp lý từ một tổ chức phi chính phủ.
Đối với những lý do nêu trên, Đảng và Chính phủ Việt Nam mới đây đã khởi xướng các chính sách để từng bước xã hội hoá các hoạt động trợ giúp pháp lý để một mặt giảm bớt gánh nặng tài chính cho Nhà nước, mặt khác tạo ra sự lựa chọn rộng hơn cho các công dân để tiếp cận các dịch vụ trợ giúp pháp lý. Chính sách này đặc biệt có lợi cho những công dân khởi kiện các cơ quan nhà nước. Ngoài ra, chiến lược phát triển hệ thống pháp luật của Việt Nam đến năm 2010 cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của chính sách xã hội hoá trợ việc giúp pháp lý tại Việt Nam. Hội Luật gia Việt Nam là chủ trì việc soạn thảo kế hoạch quốc gia về xã hội hoá việc trợ giúp pháp lý tại Việt Nam.
Mặc dù theo Luật Trợ giúp Pháp lý (được thông qua bởi Quốc hội vào năm 2006 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2007), trung tâm tư vấn pháp luật thuộc tổ chức chính trị-xã hội được quyền cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý cho người dân, các dịch vụ này vẫn còn hạn chế bởi hệ thống trợ giúp pháp lý của các tổ chức phi chính phủ không nhận được hỗ trợ tài chính của chính phủ. Đến nay, Hội Luật gia Việt Nam và một số tổ chức đoàn thể khác tại Việt Nam bao gồm Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh đã thành lập các trung tâm tư vấn pháp luật của mình, trong đó tập trung vào việc cung cấp trợ giúp pháp lý cho những người bị bất lợi. Tuy nhiên, ngoại trừ những Trung tâm trợ giúp của Hội Luật gia Việt Nam, các dịch vụ trợ giúp pháp lý của các tổ chức đoàn thể khác chỉ giới hạn cho các thành viên của họ, không cho các nhóm khác dễ bị tổn thương, và chỉ có sẵn ở cấp trung ương (tại Hà Nội).
Đối với các nguồn tài chính, như đã nói ở trên, trong khi cả hai hệ thống của nhà nước và của các tổ chức phi chính phủ đã và đang cung cấp trợ giúp pháp lý cho các nhóm dễ bị tổn thương, thì chỉ có hệ thống của nhà nước là được hưởng hỗ trợ hàng năm từ ngân sách nhà nước. Hơn nữa, trong khi các trung tâm tư vấn pháp lý của nhà nước nhận được sự hỗ trợ đáng kể từ các nhà tài trợ nước ngoài thì những tổ chức đoàn thể làm việc trên lĩnh vực này lại nhận được rất ít sự hỗ trợ của nước ngoài.
2. Xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý và vai trò của các tổ chức xã hội
Sự phát triển và sự gia tăng tính phức tạp của hệ thống pháp luật ở Việt Nam, cũng như sự gia tăng các vấn đề pháp lý tác động đến dân chúng đã lý giải cho sự cần thiết của việc xã hội hoá hoạt động trợ giúp pháp lý. “Tuy nhiên trong những năm gần đây, nhu cầu về trợ giúp pháp lý của nhân dân ngày càng gia tăng và nội dung các vụ việc cũng ngày càng phức tạp hơn. Do vậy, Nhà nước không đủ ngân sách cần thiết cấp cho hệ thống trợ giúp pháp lý Nhà nước hoạt động.”[2]
Tuy vấn đề nhận thức về pháp luật vẫn là mảng trống ở Việt Nam, có dấu hiệu cho thấy người dân ngày càng gần gũi hơn với thủ tục tư pháp và các thủ tục pháp lý khác và vai trò ngày càng lớn hơn của Luật sư. Một người được phỏng vấn cho rằng có thể so sánh với tình hình ở Trung quốc, nơi mà sự bùng nổ phát triển kinh tế đã dẫn đến sự gia tăng mạnh mẽ số lượng Luật sư hành nghề. Ở Việt Nam, người ta cho rằng số lượng Luật sư đến năm 2000 đã tăng gấp đôi, nhưng không rõ trong khoảng thời gian nào. Sự gia tăng nhu cầu dịch vụ trợ giúp pháp lý đã tạo nên một áp lực đối với các Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước và do vậy - “sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ trong vấn đề này là điều chúng tôi rất quan tâm. Trước hết, nó sẽ làm giảm gánh nặng về ngân sách và nhân lực cho Nhà nước. Nó cũng thu hút trí tuệ và sự tham gia của toàn thể nhân dân vào quá trình quản lý Nhà nước”[3]
Năm 2003, Chính phủ Việt Nam ban hành một nghị định nhằm “góp phần đáp ứng nhu cầu lớn và đa dạng của cá nhân, tổ chức về tư vấn pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho công dân và giúp họ tuân thủ pháp luật trong quan hệ cuộc sống hàng ngày và tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động tư vấn pháp luật.” Đối tượng điều chỉnh là các tổ chức chính trị-xã hội và xã hội-nghề nghiệp hoạt động vì mục đích xã hội, không phải vì mục đích lợi nhuận. Nghị định này cũng mở đường cho dịch vụ miễn phí và dịch vụ có thu tiền “Nhà nước khuyến khích các trung tâm tư vấn pháp luật tư vấn miễn phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách theo quy định của pháp luật. Ngoài hoạt động tư vấn miễn phí cho các đối tượng quy định trong Nghị định này, các trung tâm tư vấn pháp luật được phép thu phí dịch vụ từ các đối tượng để duy trì các hoạt động của mình theo quy định của Nghị định này”[4]
Quyền và nghĩa vụ của các trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các trung tâm tư vấn pháp luật được quy định trong Luật Trợ giúp pháp lý rất giống nhau. Điểm khác nhau giữa hai loại chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý này là ở chỗ các trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước có thể đại diện cho khách hàng của mình thông qua trợ giúp viên pháp lý [5] hoặc cộng tác viên là luật sư của Trung tâm trong khi các trung tâm tư vấn pháp luật mở ra theo Nghị định 65 không có các quyền này.[6]
Chưa có định nghĩa rõ ràng nào về thế nào là xã hội hóa trong bối cảnh của Việt Nam. Hơn nữa, trong quá trình tiến hành việc đánh giá này, một số người nói rằng chưa có một định nghĩa rõ ràng, hợp lý hay sự giải thích nào về thuật ngữ này. Có lẽ cách giải thích ngắn gọn nhất là xã hội hóa là quá trình đánh giá về mức độ mà Nhà nước cần có trách nhiệm trong việc xây dựng chính sách và thựctiễn, giám sát và điều chỉnh các dịch vụ chủ chốt, đồng thời cung cấp các dịch vụ đó. Quá trình đánh giá đó cần xác định loại dịch vụ nào, nếu có, mà vì lợi ích công phải là dịch vụ nhà nước và loại dịch vụ nào mà các tổ chức phi lợi nhuận hoặc khu vực tư có thể cung cấp một cách an toàn, chuyên nghiệp hơn và chi phí thấp hơn.
Mặc dù quan điểm về xã hội hoá hoàn toàn dịch vụ trợ giúp pháp lý không được Cục trợ giúp pháp lý tán thành, nhưng người ta cũng thừa nhận rằng, các tổ chức phi chính phủ có thể đóng vai trò lớn hơn. “Hiện nay chúng ta đang xác định các dịch vụ nào có thể do các cá nhân và các tổ chức phi chính phủ thực hiện…nhưng quan điểm thực tiễn của chúng ta là phải xem xét kỹ lưỡng năng lực của các tổ chức quần chúng và các tổ chức phi chính phủ dể xác định họ có thể thực hiện loại dịch vụ nào… Chúng ta cũng xác định loại dịch vụ nào các tổ chức phi chính phủ không thể thực hiện hoặc không có thẩm quyền thực hiện và là dịch vụ phải do Nhà nước thực hiện. Do vậy, mức độ xã hội hoá việc thực hiện các dịch vụ công phụ thuộc vào chính năng lực của các tổ chức phi chính phủ chứ không phải là phụ thuộc vào Nhà nước. Đối với những dịch vụ mà thành phần tư nhân và các tổ chức phi chính phủ có thể làm tốt hơn Nhà nước, thì Nhà nước sẽ chuyển cho thành phần tư nhân hoặc các hiệp hội dân sự. Theo quy định của pháp luật Việt nam, các hoạt động trợ giúp pháp lý có thể do mọi tổ chức thực hiện. Nhà nước có chính sách khuyến khích và huy động các thành phần trong xã hội thực hiện dịch vụ pháp lý. Vấn đề ở đây là bản thân các tổ chức phải chứng tỏ được năng lực và hiệu quả trong việc thực hiện các dịch vụ và nếu các tổ chức đó có năng lực thì Nhà nước sẽ trao cho họ thẩm quyền này”.[7]
Trong thời kỳ chuyển tiếp giữa giai đoạn hiện nay và thời gian khi mà các tổ chức phi chính phủ có đủ năng lực thực hiện dịch vụ pháp lý, Cục trợ giúp pháp lý cho rằng Nhà nước cần tập trung kinh phí cho các hoạt động trợ giúp pháp lý do Nhà nước thực hiện. Cục trợ giúp pháp lý cho rằng sở dĩ như vậy là bởi vì chỉ có Chương trình trợ giúp pháp lý Nhà nước mới có khả năng cung cấp các dịch vụ trợ giúp pháp lý có chất lượng. Các hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội sẽ được cấp kinh phí từ các nguồn kinh phí riêng của họ hoặc từ các nhà tài trợ quốc tế để thành lập các đơn vị trợ giúp pháp lý của họ. Nếu kinh phí Nhà nước bị phân tán cho các tổ chức trợ giúp pháp lý khác, thì chất lượng hiệu quả của hoạt động trợ giúp pháp lý Nhà nước sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Họ cho rằng cũng phải mất một thời gian Nhà nước mới có thể cung cấp được kinh phí đầy đủ cho cả hoạt động trợ giúp pháp lý Nhà nước và hoạt động trợ giúp pháp lý của các tổ chức xã hội. Cục trợ giúp pháp lý cũng đề xuất giải pháp trước mắt để giảm bớt gánh nặng chi phí cũng như để đáp ứng nhu cầu có các chuyên gia tư vấn chuyên sâu là xây dựng cơ chế bắt buộc các luật sư tư phải thực hiện một số vụ việc miễn phí.
Cục trợ giúp pháp lý cũng quan tâm đến vấn đề tránh sự chồng chéo trong hoạt động dịch vụ, vì nguồn lực thực hiện dịch vụ còn rất mỏng. Hội luật gia Việt Nam lại có quan điểm khác, cho rằng cần tránh xung đột lợi ích giữa các bên trong một vụ việc bằng cách có ít nhất hai tổ chức thực hiện dịch vụ trợ giúp pháp lý ở mỗi địa phương. “Hai bên trong một vụ việc đều có quyền yêu cầu trợ giúp pháp lý, nhưng các Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước chỉ có thể cam kết giúp đỡ một bên và do vậy, bên thứ hai sẽ không được trợ giúp pháp lý. Trong trường hợp đó, tốt hơn là nên có cả trợ giúp pháp lý Nhà nước và trợ giúp pháp lý phi chính phủ để một bên tranh chấp có thể tìm đến Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước, còn bên kia tìm đến tổ chức trợ giúp pháp lý phi chính phủ.”[8]
Trong tương lai, nếu Nhà nước quyết định cấp ngân sách Nhà nước cho việc xã hội hoá dịch vụ này, thì có thể thực hiện thông qua Quỹ trợ giúp pháp lý.Quỹ này đã được hình thành từ các nguồn của các nhà tài trợ và các quỹ tư nhân “để hỗ trợ cho việc nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý, hỗ trợ phương tiện làm việc cho các tổ chức trợ giúp pháp lý ở các địa phương có khó khăn về kinh tế.” [9] Hy vọng cácquy định về vấn đề này sẽ sớm được xem xét lại để có thể hỗ trợ cả các tổ chức trợ giúp pháp lý phi chính phủ
3. Vai trò của Hội Luật gia Việt Nam trong hoạt động trợ giúp pháp lý
Để thực hiện chính sách xã hội hoá việc trợ giúp pháp lý, Bộ Chính trị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, theo Chỉ thị số của 56-CT-TW ngày 18/08/2000, hướng dẫn Hội Luật gia Việt Nam (HLGVN) trở thành cơ sở nòng cốt trong việc thực hiện chính sách này ở trong nước.
Để thực hiện Chỉ thị nêu trên và thực hiện theo pháp luật mới về trợ giúp pháp lý, HLG đã thành lập 45 trung tâm tư vấn pháp luật (07 thuộc văn phòng của trung ương hội tại Hà Nội và 38 tại HLG các tỉnh, trong đó 11 ở vùng đồng bắng sông cửu long). Trong đó, một trong những trung tâm Tư vấn pháp luật của văn phòng trung ương hội tại Hà Nội đã được hỗ trợ bởi UNDP theo một hợp phần của dự án "Tăng cường năng lực của HLGVN", và 7 trung tâm tư vấn pháp luật ở các tỉnh khác đã nhận được hỗ trợ tài chính thông qua hai dự án nhỏ giữa HLGVN và SEARCH (Dự án hợp tác phát triển con người khu vực Đông Nam Á, dưới CIDA của Canada) và AusAIDs. Các dự án trợ giúp pháp lý mới nhất được ký kết giữa HLG và ADDA (Đan Mạch phát triển nông nghiệp châu Á) với sự hỗ trợ tài chính từ DANIDA chỉ cho 3 trung tâm tư vấn pháp luật thuộc các chi nhánh HLGVN ở tỉnh Lai Châu, Điện Biên và Lào Cai.
Theo báo cáo của các trung tâm tư vấn pháp luật của HLGVN, mỗi năm, hệ thống này cung cấp miễn phí tư vấn pháp lý, thông tin pháp luật và các văn bản pháp lý cho hàng ngàn người dân, từng bước giành được uy tín với công chúng. Tuy nhiên, HLGVN bây giờ vẫn còn phải đối mặt với khó khăn trong mạng lưới các trung tâm tư vấn pháp lý của mình, bởi với tư cách là một tổ chức đại chúng, HLGVN không nhận được sự tài trợ của Nhà nước cho các hoạt động trợ giúp pháp lý, trong khi tất cả các dịch vụ trợ giúp pháp lý được cung cấp bởi các trung tâm cho các nhóm có hoàn cảnh khó khăn là miễn phí[10]. Vì vậy, HLGVN buộc phải tìm kiếm sự hỗ trợ từ các nhà tài trợ nước ngoài để duy trì và tăng cường hoạt động của mình trong lĩnh vực này. Đặc biệt là trong nỗ lực của mình để nâng cao chất lượng tư vấn kỹ năng và kiến thức về luật pháp mới cho các nhân viên và chuyên gia tư vấn của mình tại tất cả các trung tâm tư vấn pháp luật, HLGVN đang tìm kiếm sự hỗ trợ từ các nhà tài trợ nước ngoài để có thể tiếp cận các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này.
Nhìn một cách tổng quan, vai trò của HLGVN trong hoạt động hỗ trợ pháp lý thể hiện ở 05 khía cạnh như sau:
Một là, ngoài ý kiến về tính độc lập tương đối của HLGVN so với Cục trợ giúp pháp lý và Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cấp tỉnh, còn có một số lý do giải thích vì sao Hội Luật gia Việt Nam được đặt ở vị trí hàng đầu trong việc thay thế cho trợ giúp pháp lý nhà nước. Trước hết có một thực tế rõ ràng là Hội Luật gia Việt Nam bao gồm các thành viên được đào tạo pháp luật và thường làm việc ở các cơ quan pháp luật. Như vậy, họ có nguồn phong phú các tài năng và kinh nghiệm pháp lý mà các tổ chức quần chúng khác không có. Ngoài ra do có thành viên ở tất cả các cấp trong cơ cấu hành chính Nhà nước, nên Hội nắm vững và giữ được mối liên lạc với cả giới công chức và công chúng và đó là điều được nhấn mạnh trong bản báo cáo nhu cầu tăng cường năng lực Hội.“Hội Luật gia Việt Nam chiếm vị trí độc nhất vì mức độ sâu rộng của thành viên và kỹ năng pháp lý chuyên môn, kinh nghiệm của các thành viên. Cơ cấu theo chiều ngang và chiều dọc của Hội giúp cho tổ chức có khả năng tiếp cận với xã hội Viêt nam và các cơ quan pháp luật điều chỉnh xã hội đó.”[11]
Hai là, HLGVN có nhiều điểm thích hợp hơn so với các tổ chức quần chúng khác trong việc thực hiện dịch vụ pháp luật, vì nó được thành lập theo Điều lệ để thực hiện các dịch vụ cho công chúng chứ không phải chỉ cho các thành viên của nó.[12] “Ngoài các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thuộc Bộ Tư pháp và Hội Luật gia Việt Nam, một số tổ chức quần chúng khác ở Việt Nam, bao gồm Hội Nông dân,Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh cũng thành lập các Trung tâm tư vấn pháp lý riêng của họ. Tuy nhiên ngoại trừ Hội Luật gia Việt Nam, các dịch vụ trợ giúp pháp lý của các tổ chức quần chúng đó chỉ giới hạn trong thành viên của họ, chứ không cho các nhóm khác và chỉ có ở cấp trung ương.”[13]
Ba là, với tư cách một cơ quan chuyên môn khi thực hiện trợ giúp pháp lý, các Trung tâm thuộc Hội chủ yếu tập trung vào các vấn đề pháp lý. Một số người trong HLGVN có hợp tác chặt chẽ với Hội phụ nữ đã nêu rằng khi họ tham gia trợ giúp pháp lý lưu động với Hội Phụ nữ, họ nhận thấy các buổi tư vấn thường chung chung và bao gồm cả các vấn đề khác không thuộc phạm vi pháp luật.
Bốn là, sự linh hoạt của HLGVN có thể giúp thiết kế các đề án trợ giúp cho những người có nhu cầu thực sự nhưng không thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật. Điều chứng minh rõ nhất đó là những đối tượng di cư không có kỹ năng lao động, những người thường phải sống và làm việc trong những điều kiện tồi tệ nhất trong nước và bị lạm dụng lao động và các quyền khác nhiều nhất.
Năm là, theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý, cả các trung tâm trợ giúp pháp lý của Nhà nước và các trung tâm tư vấn pháp luật thuộc Hội đều có trách nhiệm “kiến nghị về những vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật.”[14]. Thực tế có thể nói rằng quá trình cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý có thể đóng góp trực tiếp cho các mục tiêu cải cách pháp luật và tư pháp quốc gia[15]. Trách nhiệm tham gia cải cách pháp luật là trách nhiệm mà HLGVN nói rằng Hội đã thực hiện trong nhiều năm qua - điều này được minh chứng trong báo cáo đánh giá nhu cầu tăng cường năng lực của Hội. “HLGVN tham gia vào nhiều hoạt động xây dựng pháp luật và chính sách ở mọi cấp độ.Ở cấp trung ương, Chính phủ thường xuyên đề nghị HLGVN đóng góp ý kiến về nhiều dự thảo luật và văn bản pháp luật khác. Mỗi năm, HLGVN góp ý khoảng 20 dự án luật.Gần đây, HLGVN cũng được Nhà nước giao chủ trì soạn thảo văn bản pháp luật.Năm 2005 và 2006, HLGVN nhận được kinh phí nhà nước cấp cho việc soạn thảo Luật Trưng cầu ý dân trình Quốc hội. Năm 2008, HLGVN được Quốc hội giao thảo Luật Trọng tài thương mại để trình Quốc hội thông qua vào năm 2009.Một trong những hoạt động thường xuyên nhất của các hội luật gia cấp tỉnh, huyện và cấp cơ sở là góp ý kiến về các dự thảo luật của trung ương và văn bản pháp luật do các cơ quan chính quyền địa phương soạn thảo.Các hội này cũng thực hiện yêu cầu của HLGVN về việc đóng góp ý kiến đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện.”[16]
Tóm lại, với tính chất đặc biệt và vị trí đặc biệt của mình, HLGVN có điều kiện đóng góp rất quan trọng vào sựphát triển của nghề luật tại Việt Nam và hệ thống tư pháp Việt Nam, cũng như nâng cao khả năng tiếp cận công lý cho người dân Việt Nam.Thông qua việc kết nối tất cả các chủ thể chính trong hệ thống tư pháp, HLGVN có đủ khả năng đóng góp cho việc xây dựng và ban hành luật và các băn bản pháp luật khác, đóng góp giải quyết các vấn đề thách thức về pháp luật và những vấn đề quan trọng như hội nhập quốc tế và tiếp cận công lý.
1 Jordan Ryan – Former UNDP Resident Representative in Vietnam: Enhancing Access to Justice for People, Life and Law” Newspaper 17-23.02.2005 p.3.
2 Trích kiến nghị về việc “tăng cường sự tiếp cận công lý của các nhóm dễ bị tổn thương thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý của Hội Luật gia Việt nam” gửi ASAS.
3 Trích phỏng vấn đại diện của Cục trợ giúp pháp lý.
4 Điều2 - Nghị định số 65/2003/ND-CP ngày 11/6/2003 về tổ chức và hoạt động tư vần pháp luật.
5 Một loại luật sư mới được quy định tại Điều21 của Luật Trợ giúp pháp lý là viên chức nhà nước, làm việc tại Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, được cấp thẻ trợ giúp viên pháp lý và được tư vấn pháp luật và "tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bi can, bị cáo để thực hiện việc bào, người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án hình sự; người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành: đại diện ngoài tố tụng cho người được trợ giúp pháp lý để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật; thực hiện các hình thức trợ giúp pháp lý khác”.
6 “Điều 7 – Phạm vi họat động của các Trung tâm tư vấn pháp lý :
1. Phạm vi họat động của các Trung tâm tư vấn pháp lý bao gồm các công việc sau đây:
a) Hướng dẫn về tất cả các vấn đề và trả lời các câu hỏi về pháp luật;
b) Tư vấn về tính phù hợp của đơn, lời khai và các giấy tờ khác;
c) Tư vấn về việc sọan thảo hợp đồng có giá trị từ VND 100,000,000 trở xuống;
d) Thực hiện tài liệu pháp lý và thông tin pháp lý
Các công việc được quy định tại khoản này phải do các tư vấnvà các cộng tác viên của các Trung tâm tư vấn pháp lý thực hiện.
2. Các Trung tâm tư vấn pháp lýkhông được thực hiện việc bào chữa hay bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, người bị truy tố hoặc các bên liên quan khác trước các cơ quan tố tụng” Trích Nghị đinh số 65/2003/ND-CP ngày 11 tháng 6 năm 2003 về tổ chức và họat dộng tư vấn pháp luật.
7 Trích trả lới phỏng vấn đại diện của Cục trợ giúp pháp lý
8 Trích dự kiến đề xuất “về việc tăng cường tiếp cận công lý của các nhóm dễ bị tổn thươngở 06 tỉnh phía Bắc Việt nam thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý của Hội Luật gia Việt nam” do Ausaid tài trợ
9 Trích Luật trợ giúp pháp lý có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm2007 (số 69/2006/QH11)
10 Văn phòng HLGVN, Báo cáo tổng hợp về những thông tin của hoạt động trợ giúp pháp lý, 2005,2006,2007.
11 Trích đánh giá nhu cầu xây dựng năng lực của Hội Luật gia Việt nam doAndrea Redway, TS. Ngo Duc Manh và TS. Nguyen Quy Thanh, tháng 11 năm 2007.
12 Về địa vị pháp lý của Hội Luật gia Việt nam, Điều 3 Điều lệ Hội quy định Hội Luật gia Việt nam có quyền hạn, nhiệm vụ… (khoản 3) –Tham gia tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của các thành viên, cán bộ, công chức và nhân dân; (khoản 4) -Thực hiện họat động tư vấn pháp luật, giúp đỡ người nghèo và những người được hưởng chính sách trợ giúp pháp lý miễn phí, xây dựng tổ chức tư vấn phsap lý theo quy định pháp luật.
13 Trích đề án “Hỗ trợ Hội Luật gia Việt nam trong việt thực hiện trợ giúp pháp lý cho các nhóm dễ bị tổn thương ở 2 tỉnh miền núi Việt nam” Tháng 11 năm 2006.
14 Luật Trợ giúp pháp lý, có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 (Luật số 69/2006/QH11).
15 “Một số văn kiện pháp lý đã được ban hành nhằm cải cách lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt
·Cải tổ chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan Chính phủ;
·Công nhận chức năng của các cơ quan, tổ chức khác ngoài các cơ quan Chính phủ;
·Xác định cơ cấu chi tiêu hợp lý của các cơ quan hành chính và cung cấp dịch vụ công;
·Dân chủ và minh bạch trong lĩnh vực hoạch định chính sách.
Khi nghiên cứu các chủ đề cải cách cấp trung ương nói trên, có thể giả thiết rằng mục tiêu, quan điểm chỉ đường cho hoạt động của các Trung tâm trợ giúp pháp lý bao gồm:
·Thúc đẩy minh bạch hoá các thủ tục hành chính;
·Xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế cần thiết cho nền kinh tế thị trường;
·Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;
·Đảm bảo thi hành pháp luật một cách thống nhất để duy trì trật tự pháp luật;
·Tăng cường nguyên tắc pháp quyền và vai trò của các tổ chức nghề; nghiệp trong tiến trình phát triển của đất nước;
·Thúc đẩy quá trình hoạch định chính sách và pháp luật thông qua việc làm cho những người hoạch định chính sách và pháp luật hiểu được các thay đổi cần thiết đối với pháp luật và chính sách có liên quan;
·Sử dụng ngân sách như một công cụ hỗ trợ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội;
·Hoàn thiện hệ thống cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý.
· Hoàn thiện cấu trúc tổ chức của các cơ quan Chính phủ các cấp;
Không nhất thiết phải có mối liên hệ trực tiếp giữa công việc của các trung tâm tư vấn/trợ giúp pháp lý với tất cả các mục tiêu cải cách đa dạng nói trên. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu đã nỗ lực đánh giá các yếu tố có liên quan nhiều nhất đến công việc của các trung tâm tư vấn của Hội Luật gia.
Có rất nhiều hình thức thích hợp để thực hiện công việc trên như là huy động sự tham gia của các luật sư, phương pháp đánh giá nhu cầu có sự tham gia đông đảo các bên liên quan hơn hoặc tiến hành khảo sát các khách hàng thường xuyên. Hội Luật gia các tỉnh nên tổ chức trưng cầu ý kiến nhân dân về các vấn đề liên quan đến các trung tâm trợ giúp pháp lý và thực hiện một cơ chế phản hồi ý kiến hiệu quả và dễ tiếp cận đối với công chúng. Tất nhiên, việc này cần phải đầu tư về mặt đào tạo, tập huấn và chi phí thực hiện.
16 Đánh giá nhu cầu xây dựng năng lực của Hội Luật gia Việt Nam của Andrea Redway, Ts. Ngô Đức Mạnh và Ts. Nguyễn Quý Thanh, tháng 11 năm 2007.
