Phải đảm bảo công bằng và bình đẳng thực chất cho phụ nữ

31/01/2013
GS.TS Lê Thị Quý, Viện trưởng Viện nghiên cứu giới và phát triển (INGAD) góp ý về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

Trong khi tại một số nước trên thế giới, bình đẳng nam nữ còn chưa được đề cập trong luật pháp thì quyền bình đẳng nam nữ ở Việt Nam đã được đề cập trong Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ngay từ năm 1946. Nay Hiến pháp lại đang được sửa đổi theo hướng bình đẳng giới, điều đó được đề cập rõ nét tại điều 27 (sửa đổi bổ sung điều 63) và một số điều khác là tuyệt vời.

 

Trong đó, khoản 3: “Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử về giới” đã đưa được khái niệm mới, tiến bộ nhất hiện nay về bình đẳng giới trong Công ước Liên hợp quốc về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối với phụ nữ (CEDAW) là rất phù hợp. Điều tôi còn băn khoăn là khoản 2: “Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền bình đẳng giữa công dân nữ và nam trên mọi lĩnh vực. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội”. Nghe qua có vẻ ổn nhưng trên thực tế, bình đẳng nam nữ mà nói chung chung thì sẽ không gọi là bình đẳng vì đó chỉ là bình đẳng giới hình thức. Bình đẳng giới thực chất cần phải thêm cả khái niệm công bằng.

 

Đúng là đứng trên góc độ pháp luật, nam hay nữ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau trong gia đình và xã hội, không có gì phân biệt; nhưng trên thực tế, xuất phát từ giới tính khác biệt của nam và nữ thì ngoài trách nhiệm công dân, trách nhiệm của người lao động, phụ nữ còn phải thực hiện thiên chức làm mẹ, tức là mang thai, sinh đẻ và cho con bú bằng sữa của mình. Trong khi đó, xã hội hiện nay đang giao cho họ trọng trách là chăm sóc gia đình, chồng con và những người thân khác mà chúng tôi gọi là xã hội chức.

 

Về nguyên tắc, trình độ, công việc ngang nhau thì đồng lương ngang nhau nhưng trình độ của phụ nữ sẽ không thể ngang với nam giới vì họ phải thực hiện cả thiên chức gia đình và xã hội chức rất nặng nề như tôi đã nói ở trên nên để có sự bình đẳng cần phải dựa trên sự công bằng, có nghĩa là xem xét những đặc điểm giới tính và xã hội của cả nam và nữ để so sánh.

 

Vì vậy, trong khoản 2, điều 27, theo tôi phải có thêm chữ công bằng giới bên cạnh chữ bình đẳng giới để đảm bảo và khẳng định nguyên tắc bình đẳng không chỉ ở quyền (trên khía cạnh pháp luật) mà còn bình đẳng cả về cơ hội, sự tham gia và hưởng thụ của hai giới (trên khía cạnh thực tế). Làm như vậy cũng là cách để đề cao vị thế thực sự của người phụ nữ trong xã hội. Hiện nay chúng ta mới dừng lại ở việc nhấn mạnh vai trò phụ nữ là những người vợ, người mẹ, người công dân tức là đòi hỏi ở sự đóng góp của họ trong khi vị thế là cái mà chị em được đánh giá đúng, được hưởng thụ từ vai trò của mình thì lại chưa được chú trọng. Vì vậy, vị thế của phụ nữ trong xã hội hiện nay còn rất thấp so với nam giới trong khi vai trò của chị em đang gánh vác, đang đóng góp cho xã hội lại rất lớn.

 

Một vấn đề khác mà tôi cũng quan tâm trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là các nội dung về quyền con người. Trong quyền con người có rất nhiều nội hàm nhưng cần phải bổ sung thêm quan điểm về quyền con người của phụ nữ gắn liền với nhu cầu chiến lược của phụ nữ. Nhu cầu này xuất phát từ địa vị thấp kém của phụ nữ trong gia đình và xã hội, chẳng hạn như quyền công dân của họ (quyền được kiểm soát và bảo vệ thân thể để tránh nạn hãm hiếp, quấy rối, bạo lực tình dục, bị bắt buộc làm gái mại dâm, bị buôn bán…; quyền được sống an toàn, quyền được đối xử công bằng ngang nam giới trong gia đình và xã hội) đến quyền cao hơn là quyền được học tập, được tham gia, được đề bạt, được lãnh đạo. Vì thế quyền con người của phụ nữ khác với quyền con người của nam giới. Nếu dự thảo chỉ nói quyền con người không thôi thì chưa đủ, không đề cập đến giới, sẽ khó thực thi và cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật sau này.

Theo Báo Phụ nữ Thủ đô

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video