Góp phần làm rạng danh truyền thống xứ Nghệ

26/10/2005
Trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước, phụ nữ Nghệ An đã đứng lên sát cánh cùng chồng con, dương cao ngọn cờ đại nghĩa, làm rạng danh truyền thống lịch sử của quê hương Nghệ An.

Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất không được thiên nhiên ưu đãi "nắng dập, mưa dồn", thời tiết khắc nghiệt, cộng với giặc ngoại xâm hoành hành, đã tôi luyện cho người phụ nữ Nghệ An đức tính: Lầm lỳ trong đau khổ, gan góc trong đấu tranh, cần cù, chịu khó trong lao động, đoàn kết, nhân đức, thủy chung, giúp nhau trong hoạn nạn "Tối lửa, tắt đèn" và truyền thống "Chị ngã em nâng”.

 

Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước, phụ nữ Nghệ An không những xông pha giáp mặt với kẻ thù trong lửa đạn, mà còn dũng cảm, mưu trí, bền bỉ trong nuôi quân, làm giao thông liên lạc, vận động tuyên truyền, binh vận và khi cần thì tòng quân nhập ngũ.

 

Với truyền thống “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh" trong lịch sử chống ngoại xâm, chị em đã đứng lên bất chấp già, trẻ, hễ làm được việc gì có ích, phụng sự Tổ quốc, đuổi giặc ngoại xâm là không nề hà. Nhiều chị đã gác việc nhà, hy sinh tình riêng để nghiêng vai giúp đỡ chồng con, lo toan việc nước.

 

Đó là chị Đinh Thị Nguyệt ở làng Cao Điển (Thanh Chương), bất chấp nguy hiểm, bà đã đứng ra lo liệu, thu xếp, đảm nhiệm công tác hậu cần cho nghĩa quân trong phong trào Văn thân của Trần Tấn, Đặng Như Mai, dấy cờ khởi nghĩa ở vùng Thanh Chương và Nam Đàn. Đó là bà Nguyễn Thị Lân ở Tổng Phù Long, huyện Hưng Nguyên đã cùng con rể là Lê Ninh (Ấm Ninh), một tướng lĩnh của nghĩa quân Phan Đình Phùng trong phong trào Cần Vương (1885) cùng con trai là Nguyễn Lân đứng ra chiêu tập nghĩa quân, mua sắm vũ khí, tích trữ quân lương ủng hộ phong trào Phan Đình Phùng, Nguyễn Xuân Ôn. Bà đã hiến 20 mẫu ruộng và 3000 thỏi vàng cho các con lo việc đánh giặc. Khi con trai bà hy sinh, bà đã nén đau thương mà nói với vợ những người đến thăm hỏi: "Con ta không làm nhục ta, đó là điều an ủi ta vậy”.

 

Noi gương những người tiền bối, bà Trần Thị Trâm ở Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu đã nén mất mát, đau thương, quyết đứng lên trả thù nhà, đền nợ nước. Với tinh thần yêu nước nồng cháy, bà đã bất chấp hiểm nguy vượt lên cả mọi lễ giáo phong kiến ràng buộc, bàn tán và chịu đựng những tiếng "ong ve” của một phụ nữ goá bụa, để lo công việc làm giao thông liên lạc từ đằng trong ra đằng ngoài, hết phong trào Cần Vương lại đến phong trào Đông Du. Bà là cầu nối gắn hai phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu ở Nghệ An và phong trào Yên Thế của cụ Hoàng Hoa Thám ở phía Bắc. Là người phụ nữ can đảm, thông minh và mưu trí, bà Trần Thị Trâm đã vượt hiểm nguy, thân gái dặm trường, hết đằng trong ra đằng ngoài, sang Xiêm, Trung Quốc, để làm đường dây đưa thanh niên yêu nước Nghệ An đi xuất dương, và mua sắm vũ khí từ nước ngoài về cho nghĩa quân. Bà Trâm đã đưa những người thanh niên ưu tú của Nghệ An ra đi tìm đường cứu nước, trong đó có con trai của mình là Hồ Học Lãm và cháu mình là Hồ Tùng Mậu..

 

Bà Trần Thị Trâm là tấm gương sáng trên mọi lĩnh vực cho phụ nữ Nghệ An soi chung học tập, bà xứng đáng được nhận danh hiệu “Nữ kiệt đất Hồng Lam", "Tiểu Trưng' do cụ Phan Bội Châu phong tặng.

 

Chị em phụ nữ Nghệ An từ xưa đã biết đặt quyền lợi cá nhân gia đình gắn với quyền lợi của dân tộc. Chị em khẳng định: Tổ quốc mất độc lập thì chị em phụ nữ mất tự do, hạnh phúc. Vì sự tồn vong của nước nhà, những người con gái mười tám, đôi mươi xuân xanh của Xứ Nghệ đã sát cánh cùng các chàng trai "đội trời đạp đất...” đi xuất dương tìm đường cứu nước. Đó là các chị: Ngô Khôn Duy (Nghi Lộc); chị Thanh (Hưng Tân - Hưng Nguyên), chị Võ Thị Em ở Phù Xá.. . Đặc biệt là có bà đặng Quỳnh Anh, quê ở Thanh Chương, trước lúc đi xa xuất dương, còn xuống thăm và chào thầy giáo Nguyễn Thức Tự ở Nghi Lộc đồng thời nhận số tiền thầy Tự gửi sangcho tổ chức cách mạng của cụ Đặng Thúc Hứa ở trại Cày (Xiêm) hoạt động.

 

Chị em phụ nữ Nghệ An không chỉ dũng cảm đối mặt với khó khăn, nguy hiểm mà còn đi đầu trong công tác binh vận. Bà Nguyễn Thị Thanh (chị gái Bác Hồ) đã cùng ông Tú Kiên cướp súng của lính khố xanh trong Thành Vinh vào đêm 5/2/1918 cung cấp vũ khí cho nghĩa quân Đội Quyên, đội Phấn đánh địch. Bà Thanh là người đã khéo léo trong công tác vận động gia đình Phạm Bá Phổ, lôi kéo con trai Tổng đốc An Tĩnh đứng về phía cách mạng, việc làm thầm lặng của bà Nguyễn Thị Thanh đã giúp vào việc ngăn chặn tổn thất máu và lửa cho cách mạng trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930 – 1931.

 

Tinh thần yêu nước, tự cường, độc lập dân tộc của chị em còn thể hiện đậm nét trong những người nữ sinh ở các trường học. Đó là các chị Nguyễn Minh Khai, Nguyễn Quang Thái, Nguyễn Thị Nhã, Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị Xắn, Nguyễn Thị Thiu (Nghi Lộc). Các chị là những cặp chị em gái cùng học ở các trường Đồng Khánh (Huế) hay trường Quốc Học (Vinh) vì yêu nước họ đã quên thân, nghỉ học để hoạt động cách mạng. Đó là những hạt giống Đỏ cách mạng đầu tiên từ ngày có Đảng ở Nghệ An.

 

Đảng cộng sản Vệt Nam ra đời, như chắp cánh cho chị em phụ nữ thoát khỏi ách ràng buộc của xã hội phong kiến, hàng ngàn chị em đã đứng lên gánh vác việc nước, làm nên một cuộc cách mạng "Xung thiên" tạc vào lịch sử trang sử vàng Xô Viết anh hùng. Có thể nói chưa bao giờ chị em phụ nữ Nghệ An lại có điều kiện thử nghiệm về khả năng toàn diện của mình như trong thời kỳ Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 .

 

Mỗi người một việc, việc nào chị em làm cũng giỏi, chị em như những mạch nước ngầm ở trăm nẻo, được Đảng khơi thông dòng chảy, họ đã hoà quyện vào nhau, tạo thành dòng Lam Giang cuộn sóng, rửa vết nhục ngàn năm, để nhấn chìm lũ cướp và bọn bán nước.

 

Trong cao trào XVNT 1930-1931 đã xuất hiện những cán bộ nữ lãnh đạo có trình độ tổ chức tuyệt vời. Đó là các chị Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Thị Xắn, Nguyễn Thị Phúc, Tôn Thị Quế, Nguyễn Thị Kỳ...là những người xông pha lửa đạn, đấu tranh trực diện với kẻ thù, khi diễn thuyết, khi phá kho thóc cứu đói cho dân. Đó là các chị Nguyễn Thị Phia (Hưng Nguyên), Nguyễn Thị Thảo, Hồ Thị Nhung (Quỳnh Đôi), Võ Thị Ba, Võ Thị Bốn (Hưng Nguyên), Lê Thị Nhung, Trần Thị Phùng (Đặng Sơn - Đô Lương), Phan Thị Ba, Bùi Thị Dĩ (Nam Đàn), Đặng Thị Mận, bà Tuân (ở Anh Sơn).

 

Chị em là những người tận tụy trong công tác liên lạc, thông minh mưu trí như chị Nguyễn Thị Nghĩa, Nguyễn Thị Hồng (vợ đồng chí Nguyễn Sỹ Sách), Võ Thị Túc (Lộc) ở Vinh, chị Vi Nình (liên lạc cho đồng chí Lê Viết Thuật - Xứ uỷ Trung Kỳ)... Hàng trăm chị em đã chắt chiu từng mớ rau, hạt gạo, san sẻ bớt bát cơm của chồng con hàng ngày, để nuôi cán bộ cách mạng. Đó là chị Nhâm, chị Phạm Thị Loan (vợ đồng chí Hoàng Trọng Tư), chị Mai (Vinh), chị Lài (Anh Sơn)...

 

Tinh thần cách mạng, đức hy sinh vì việc nghĩa của chị em phụ nữ Nghệ An được toả sáng trong nhà tù đế quốc. Chị em đã biến địa ngục trần gian của kẻ thù thành trường học cách mạng của Đảng, coi cái chết vì nước nhẹ tựa lông hồng. Những bài thơ động viên nhau giữ vững ý chí chiến đấu, tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng, được xuất hiện trong nhà tù:

 

Rồng tiên con cháu nước nhà

Nước ta tuy mất, hồn ta vẫn còn

Còn giời còn nước còn non

Hãy còn quân giặc ta còn đấu tranh”.

(Thơ chị em viết trong Nhà Lao Vinh 1931)

 

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phụ nữ Nghệ An với hai bàn tay trắng, vũ khí tinh thần là lòng yêu nước, đã đứng lên đấu tranh, góp phần thêu dệt nên truyền thống phụ nữ Vệt Nam: "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang".

 

Ngày nay, dưới ánh sáng nghị quyết của Đảng, đi theo con đường mà Bác Hồ đã chọn, phụ nữ Nghệ An không ngừng vươn lên trên mọi lĩnh vực, nhất là khoa học kỹ thuật, phấn đấu vươn lên ngang tầm thời đại trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, góp phần xây dựng Nghệ An thành một tỉnh giàu mạnh, như lòng mong ước của Bác Hồ kính yêu trước lúc đi xa.

Ban Tuyên giáo Hội LHPN tỉnh Nghệ An

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video