Nguồn gốc của Áo dài Việt Nam: Áo dài 5 thân

18/07/2020
Ở phần 2 của công trình nghiên cứu nguồn gốc áo dài Việt Nam, nhà nghiên cứu văn hóa Trịnh Bách giới thiệu về áo dài 5 thân, cùng với đó là hành trình cách tân đầy ngoạn mục của áo dài Việt Nam để cho ra đời tà áo dài quen thuộc như ngày nay.
Trái: Họa sỹ Lê Thị Lựu trong áo dài 3 thân đầu thập niên 1940 (ảnh tư liệu) Phải: Áo dài gấm thất thể 3 thân năm 1948 ở Hà Nội

Về áo dài năm thân thì có những chi tiết lịch sử cần được chú ý. Trước hết, theo sử gia Phan Khoang cho biết trong sách "Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777", thì tương truyền Đào Duy Từ (1572-1634) trong lúc lập kế chống lại họ Trịnh ngoài Bắc đã khuyên chúa Hy Tông Nguyễn Phúc Nguyên đổi cách ăn mặc của dân chúng xứ Đàng Trong cho khác biệt hẳn với xứ Đàng Ngoài. Như bỏ nón thượng đội nón chóp, bỏ áo tứ thân phơi yếm mà mặc áo năm thân cài khuy, cũng như bỏ váy để mặc quần.

Nhà nghiên cứu văn hóa Trịnh Bách. 

Chi tiết lịch sử thứ hai có thể liên quan đến cái áo dài năm thân là từ quyển sách 'Phủ biên tạp lục' của Lê Quý Đôn viết khi ông làm hiệp trấn Thuận Hóa, sau khi Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc của triều đình Đàng Ngoài chiếm được Thuận Hóa từ chúa Nguyễn năm 1776. Những gì Lê Quý Đôn viết trong Phủ biên tạp lục đã khiến nhiều người kết luận rằng chính chúa Thế Tông Nguyễn Phúc Khoát của xứ Đàng Trong khi xưng vương năm Giáp Tý (1744) đã thay đổi cách ăn mặc của người dân Nam Hà, và tạo ra cái áo dài năm thân.

Nguyên ủy là trong sách 'Phủ biên tạp lục' của Lê Quý Đôn có đoạn: "Năm Cảnh Hưng thứ 5, Giáp Tý, Nguyễn Phúc Khoát nghe người Nghệ An truyền câu sấm: "Tám đời trở về Trung Nguyên", thấy từ Đoan Quốc công đến nay vừa đúng 8 đời, bèn xưng vương hiệu, lấy thể chế áo mũ trong 'Tam tài đồ hội' làm kiểu mới, áo đều dùng vóc đoạn, người sang thì dùng mãng bào thủy ba, mũ thì trang sức bằng vàng bạc. Lại hạ lệnh cho trai gái hai xứ (Thuận, Quảng) đổi sang dùng áo quần Bắc quốc để tỏ sự biến đổi; đến như khiến phụ nữ đều mặc áo ngắn hẹp tay như áo đàn ông thì Bắc quốc không có như thế. Trải hơn 30 năm, người ta đều tập quen, quên cả tục cũ".

Đây là tất cả những gì Lê Quý Đôn viết về việc thay đổi trang phục xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn Phúc Khoát năm 1744. Và người ta suy từ đoạn viết này ra rằng chúa Nguyễn Phúc Khoát đã tạo ra cái áo dài 5 thân ngày nay.

Sách 'Tam tài đồ hội' của đời Minh, Trung Quốc, có 3 tập viết về các lễ phục của triều Minh. Các lễ phục của các triều Lê - Nguyễn Việt Nam về sau vẫn theo thể chế lấy ra từ sách này chứ không theo thể chế của nhà Mãn Thanh. Về áo tay hẹp (trách tụ) thì trong sách liệt kê một cái áo dài tay hẹp của phái nam có cổ tròn (bàn lĩnh, không có cổ đứng) được gọi là 'trách tụ sam'. Tay áo trách tụ sam hẹp hơn tay áo thụng, nhưng rộng hơn tay áo dài Việt Nam, và nách áo rộng gần như nách áo thụng. Phần trang phục của sách Tam tài đồ hội không có chỗ nào nhắc đến áo ngắn.

Còn như cái áo ngắn có tay hẹp được Lê Quý Đôn nhắc đến trong đoạn văn này thì nguyên văn chữ Hán trong sách Phủ biên tạp lục viết rõ là 'trách tụ đoản y' (áo ngắn hẹp tay), cho nên không thể là áo dài (tức là trường y hay trường sam) được.

Hiện nay ở nước ta vẫn có các loại áo ngắn hẹp tay như áo cánh, áo bà ba… Bên cạnh đó cho đến giữa thập niên 1970, các gia đình người Việt giầu sang ở Sài Gòn ưa nuôi các phụ nữ người Hoa, gọi là Xẩm, để giúp việc nhà hay trông trẻ em. Những phụ nữ Xẩm này vẫn mặc quần với áo ngắn hẹp tay của phụ nữ Hán tộc đời Thanh, mà họ gọi theo tiếng Quảng Đông là 'tủn xám', tức là đoản sam. Loại y phục này rất phổ biến trong Chợ Lớn thời đó. Chắc đây mới là những dạng áo ngắn hẹp tay được nhắc đến trong dụ của chúa Nguyễn Phúc Khoát.

Trái: 'Trách tụ sam' trong sách Tam tài đồ hội. Phải: Một cô Xẩm mặc áo trách tụ đoản sam ở Nha Trang (ảnh Gabrielle Vassal 1905)

Rồi sách Phủ biên tạp lục viết tiếp: "Năm Bính Thân (1776), mùa xuân, đặt nha môn Trấn phủ; tháng 7 mới hiểu dụ rằng: "Y phục bản quốc có chế độ, địa phương này từ trước cũng chỉ tuân theo quốc tục. Nay kính vâng thượng đức dẹp yên cõi biên, trong ngoài như nhau, chính trị và phong tục phải nên thống nhất. Nếu còn có người mặc quần áo kiểu người Trung Quốc thì nên đổi theo thể chế của nước nhà"… "thường phục thì đàn ông đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền không cho xẻ mở. Duy đàn ông muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc thì cũng được. Lễ phục thì dùng áo cổ đứng tay dài, vải xanh chàm hay vải đen, hay vải trắng, tùy nghi".

Dụ tháng 7 năm Bính Thân này do Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc ban ra. Bản quốc ở đây có nghĩa là xứ Đàng Ngoài của triều đình Lê-Trịnh. Cái áo cổ đứng ngắn tay trong hịch của Hoàng Ngũ Phúc (nguyên văn chữ Hán trong sách là 'trực lĩnh đoản tụ y') thì dịch giả trước giờ vì không hiểu về trang phục cổ nên dịch sai. Cổ đứng phải là 'Thụ lĩnh' hay 'Lập lĩnh', chứ không phải là trực lĩnh. 'Trực lĩnh đoản tụ y' không phải là 'áo cổ đứng ngắn tay', mà phải dịch là 'áo ngắn tay với thân trước mở dọc'. Nghĩa là cái áo cánh. Đây không thể là áo dài tứ thân được, vì hai bên nách trở xuống phải may kín không xẻ mở.

Còn cái lễ phục trong dụ của Việp Quận công, mà Lê Quý Đôn viết là 'trường tụ trực lĩnh y' (bị dịch sai là cổ đứng tay dài), là loại áo 'Trường tụ bối tử' có từ thời Tống; với tay thụng dài, mở dọc ở giữa hai thân trước. Dạng áo này vẫn phổ biến ở thời Lê. 

Đời Thanh bên Trung Quốc có một loại áo dài cổ tròn tay hẹp gọi là 'Mãn thức trường sam', nghĩa là áo dài kiểu Mãn Châu. Áo Mãn thức trường sam thường để mặc lót trong các triều phục như 'Trường bào' hay 'Mã quái' (áo kỵ mã). Cuối thế kỷ 19 dân Hán tộc bên Trung Hoa đặt thêm cái cổ đứng lên áo trường sam, để thành một loại Hán phục. Và họ gọi nó là 'Trường bào', thay cho áo trường bào của triều Thanh. Áo trường bào phái nữ lúc đó có thêm cái cổ đứng và được gọi là 'Kỳ bào'. Áo Mã quái cũng được thêm cái cổ đứng, rồi gọi là 'Đại quái'. Giữa giai đoạn 1911-1949 áo Trường bào Hán phục và áo khoác Đại quái là quốc phục của Trung Hoa Dân quốc.

Trái: Mãn thức trường sam mặc trong áo khoác Mã quái, vẽ năm 1821 (Metropolitan Museum, New York) Phải: Áo Trường bào Hán phục (ảnh Wolfgang Wiggers)

Rồi đến đầu thập niên 1920 lại có một loại trường sam mới của phái nữ xuất hiện ở Thượng Hải. Áo này là do áo Kỳ bào được cách tân thêm mà thành. Đây là áo 'Sường xám', tức là trường sam được phát âm theo tiếng Quảng Đông, mà từ lâu đã trở thành quen thuộc với người Việt. Sường xám nữ có thân giống áo dài Việt Nam, nhưng tay ngắn hơn, hoặc về sau này không có tay.

Trái: Một cung phi triều Thanh mặc Kỳ bào cuối thế kỷ 19. Phải: Bà Tống Khánh Linh, phu nhân lãnh tụ Tôn Dật Tiên, mặc sường xám thập niên 1930 (ảnh tư liệu)

Áo dài tay chẽn mặc với quần xuất hiện khá trễ trong lịch sử trang phục của Trung Hoa. Nhưng lối ăn mặc này lại phổ biến ở khu vực Ấn Độ-Pakistan-Afghanistan từ cả hai ngàn năm, và được gọi là 'Salwar Kameez'.  Salwar có nghĩa là quần, và kameez là áo. Cách gọi này là do ảnh hưởng của vùng Trung Đông lên Ấn Độ hồi thế kỷ 11-13.  Trang phục salwar kameez rất phong phú, với nhiều tên gọi và kiểu dáng khác nhau tùy khu vực. Trong đó có dạng áo dài Kurta với quần Paijama, được Pakistan nhận làm quốc phục ngay sau khi lập quốc năm 1947, rất gần gũi với áo dài Việt Nam.

Quốc phục salwar kameez của Pakistan. Trái: Áo kurta nam với quần paijama (ảnh Sanaulla). Phải: Áo kurta nữ với quần palazzo và khăn dupatta (ảnh Kalki Fashion)

Từ hàng ngàn năm trước áo dài có tay bó đã xuất hiện ở Ấn Độ dưới dạng kameez Varbana xẻ vai chui đầu, kameez Angarkha có thân áo trước mở dọc một bên, và áo khoác kameez Sherwani mở dọc giữa thân trước. Dạng kameez Kurta có mở một chút ở cổ áo thân trước để chui đầu được người Hồi giáo đem vào Ấn Độ từ thế kỷ thứ 11 đến 13.

Cùng lúc đó tên gọi kameez cũng được người Hồi giáo đưa vào bán đảo Iberia (Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha) mà họ mới chiếm làm thuộc địa. Ở đây nó được phiên âm theo tiếng Latin thành Camisia, và rồi thành Camisa ở Tây Ban Nha. Sau đó tên loại trang phục này được phát âm là Chemise (Sơ mi) ở Pháp. Cũng khoảng từ thế kỷ 10-11, các nhà buôn Ả rập và Ấn Độ cũng truyền bá văn hóa của họ, trong đó có trang phục, đến vùng đông nam Á châu.

Vì lý do kiêng gợi dục của đạo Hồi, áo dài kurta nguyên thủy may thẳng không ôm thân thể, và không mở dọc cài khuy ở thân trước. Áo được xẻ mở một đoạn trên cổ trước ngực hay xẻ bên vai để chui đầu, rồi thắt dây hay cài khuy. Cho đến tận bây giờ, vì lý do tôn giáo mà áo kameez kurta phái nữ của người Pakistan dù có may bó theo thân thể vẫn không xếp li bó eo. Đàn bà còn che tóc và cổ bằng khăn choàng Dupatta, là phần không thể thiếu thứ ba trong bộ trang phục salwar kameez của người Ấn-Hồi.

Áo kurta nữ dạng may ôm người, với quần palazzo và khăn dupatta

Trong khi đó người Ấn Độ cởi mở hơn cho nên áo kameez phái nam của họ vẫn còn có dạng Sherwani và Achkan mở dọc và cài khuy ở giữa thân trước hay ở một bên. Và từ thập niên 2000 còn lác đác thấy có dạng áo kurti phái nữ có chít li ở eo.

Quần (salwar) đã được phổ biến ở Ấn Độ dưới dạng Svathana bó chân từ cả hơn ngàn năm trước. Hiện nay salwar có rất nhiều dạng và tên khác nhau tùy vùng. Nhưng liên quan đến áo dài Việt Nam thì chỉ kể đến 3 dạng, là salwar Churidar có ống chật, là hậu thân trực tiếp của quần svathana; salwar Palazzo với ống loe rộng; và salwar Paijama ống thẳng giống như quần áo dài Việt Nam. Quần paijama, được người Tây Phương ưa chuộng, bao lâu nay cùng áo ngắn jama đã trở thành bộ quần áo ngủ pi-da-ma thông dụng khắp nơi trên thế giới, và cả ở nước ta.

Áo dài 5 thân của Việt Nam cũng đã hiện hữu từ lâu lắm rồi. Trong quyển sách 'Relatione della nuova missione delli P.P. della Compagnia di Gesù al Regno della Cocincina' xuất bản năm 1631, linh mục-tác giả Cristoforo Borri cho biết rằng cái áo dài mầu thâm phổ biến của nam giới và sỹ tử ở Thuận Quảng đầu thế kỷ 17 trông tương tự như áo chùng thâm của các giáo sỹ Công giáo thời đó. Ông cũng cho biết rằng đàn ông Nam Hà cũng để tóc dài và quấn khăn như đàn bà.

Trái: Áo chùng thâm của linh mục Công giáo La Mã thế kỷ 21 (ảnh uncatolico) Phải: Áo dài 5 thân của một giáo sỹ Công giáo ở Nam Đinh cuối thế kỷ 19 

(Còn tiếp)

PNVN

TÂM ĐIỂM

CÁC ĐỀ ÁN

Video